Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2013

16bis- CHUYỆN ÔNG GIÀ MẤT NGỰA.

CHUYỆN ÔNG GIÀ MẤT NGỰA.


        ... Khi ấy tôi còn bán sách cũ cùng hai người bạn ở dạng cộng tác với Cty Fahasa của nhà Nước. Ăn lương theo doanh thu trong nhà sách Lê Phan cũ, nay đã được nhà nước tiếp quản. Cửa hàng là hai căn thông nhau của dãy phố liên kế hai từng, cùng dãy với nhà hàng Vân Cảnh tọa lạc trên đường Phạm ngũ Lão nối dài ở Quận 1. Đối mặt với bến xe buýt nơi Bùng binh trước cửa chợ Bến Thành.

             MỘT VÀI HÌNH ẢNH LIÊN QUAN ĐẾN KHU VỰC CHỢ BẾN THÀNH.

Theo bản vẽ “ Dự án nối liền đường Trương công Định với đường Bác sĩ Calmette và đường Nguyễn Phi với đường Bác sĩ Yersin xuyên qua nhà Ga Saigon năm 1966 ” này. Nhà hàng ở đầu nhà ga Saigon nói trên có tên là Hòa Bình, mãi đến năm 1966 vẫn còn.

 Facade sur place E. Cuniac. Bản vẽ một cái quán giải khát hai tầng nằm ở phần đất mũi Ga xe lửa cũ mé Tây Bùng binh Cuniac nay là phần mũi của Công viên 23 tháng 9.

Theo bản vẽ “ Dự án nối liền đường Trương công Định với đường Bác sĩ Calmette và đường Nguyễn Phi với đường Bác sĩ Yersin xuyên qua nhà Ga Saigon năm 1966 ” này. Nhà hàng ở đầu nhà ga Saigon nói trên có tên là Hòa Bình, mãi đến năm 1966 vẫn còn.


 “ Dự án thiết lập khu Trung Tâm Thương Mại Saigon ”. trên thửa đất Ga xe lửa Saigon cũ ( hiện nay là Công viên 23 tháng 9 ) của Kiến Trúc sư Lê văn Lắm năm 1964.( trích Ánh đèn dầu. Tập V – số 1 – 1964 ).

 Rue Vienot ngày 19-3-1950. Góc nhìn từ đường Lê thánh Tôn. Quận 1, nhìn dọc theo đường Phan châu Trinh.( Cửa Đông chợ Bến Thành ) hướng về BV Saigon.



Chợ Saigon sau cuộc biểu tình ngày 19-3-1950. Bên phải hình chụp là Rue Schoeder ( đường Phan bội Châu. Cửa Tây chợ Bến Thành ).

   Chiếc xe của Quan Pháp bị đốt cháy khi đi dẹp biểu tình ngày 19-3-1950.
Chưa rõ địa điểm xe cháy.


                     Chiếc xe sau khi bị đốt cháy ngày 19-3-1950.


        BẢNG LỊCH TRÌNH KIẾN THIẾT HỆ HỐNG HOẢ XA VIỆT NAM
                                       TỪ 1885 ĐẾN 1936.


1885 – Saigon - Mỹ Tho.
1890 - Phú lang Thương - Lạng Sơn.
1902 - Hanoi - Na Cham.
1903 - Hanoi - Thanh Hóa.
         - Hải Phòng - Gia Lâm.
         - Gia Lâm - Việt Trì.
1904 – Xuân Lộc – Saigon.
1905 – Thanh Hóa – Vinh.
         -  Gia Ray – Xuân Lộc.
1906 – Việt Trì – Lào Kay.
         - Huế - Đà Nẵng.
1908 – Đông Hà – Huế.
         - Sông Dinh – Gia Ray.
1910 – Phan Thiết – Sông Dinh.
1912 – Phú Vinh – Tháp Chàm.
1913 – Tháp Chàm – Mường Mán.
1914 – Tháp Chàm – Tân Mỹ.
1919 – Tân Mỹ - Sông Pha.
1926 – Vinh – Tân Ấp.
1927 – Tân Ấp – Đông Hà.
         - Sông Pha – Cần Rang.
1928 – Cần Rang – Trạm Hành.
1932 – Trạm Hành – Đà Lạt.
1933 – Tân Ấp – Ba na Phao.
1935 – Đà Nẵng – Qui Nhơn.
         - Nha Trang – Phú Vinh.
1936 – Qui Nhơn – Nha Trang.
1939 – Saigon Voy. – Saigon M. ?

       (Trên đây là bản lịch trình kiến thiết hệ thống hỏa Xa. Rất tiếc là không ghi rõ do cơ quan nào lập ra. Nhưng cũng xin ghi ra để tham khảo).


         Lúc này thị trường tranh lụa, sơn mài của ta rất thịnh hành, đắt như tôm tươi. Đa số các họa sĩ VN thời này nếu có máu cực đoan thì không kể, còn ngoài ra ai nấy đều chăm bẳm vào vẽ lụa, hay làm sơn mài, tất tần tật. Thị trường tranh lúc mắt nhắm, mắt mở này có những người chủ quan, [Không biết có cận thị không?] dám phán một câu xanh dờn rằng : Tranh sơn dầu đã hết thời rồi! Chỉ có tranh lụa, sơn mài là nhất thôi! Nếu thế! Không khéo cả thế giới sắp chạy bay sang VN mua những loại này về làm bộ sưu tập không chừng!?!?.Thế mới kinh! Quả thật lúc này anh mà đem sơn dầu ra bán chỉ có nước húp cháo rùa, thiên hạ sẽ bảo anh là hâm, lỗi thời. Tôi còn nhớ hồi đó HS Đ.Q.Em có chưng một tấm tranh sơn dầu ở Gallery Rex. Vẽ bà xã ổng ngồi trên cục đá tảng ngửa hai bàn tay ra phía trước, màu rất nhã, thanh thoát, nền không gian sau lưng người mẫu cả một vùng trời xa xăm kỳ ảo, rất đẹp! Rao bán đến một cây lận. [Thời điểm này chỉ có mỗi chàng Em mới dám quát cái giá như thế, các anh họa sĩ cũng trong nhóm “Hội Họa Sĩ Trẻ” khác khiêm tốn hơn rất nhiều, cỡ một hai khoẻn là cám ơn rối rít mà bán rồi! Mà có ai thèm mua cho đâu mà rộn!] Theo tôi cái giá đó cũng rất xứng tầm, tranh lụa mèng mèng cũng một chỉ rồi. Chàng Võ cũng khoái tấm này lắm! Tôi nhớ không lầm thì hình như Võ nhà ta cũng có môi giới, dẫn anh Ba Tri. đến xem để mua. Tưởng sao! Ai dè cũng trượt tuốt. [ Đã bảo rồi! Hắn chỉ thích đồ sứ đời Nguyên thôi! Không nhớ có lần bạn vác tấm tranh sơn dầu của Nguyễn gia Trí vẽ một bến thuyền Hồng Quảng gì đó có màu xanh tím, đem về nhà treo cả tuần, bán cũng có một cây, hắn có thèm ỏ  đâu! Nhớ hông anh bạn Võ. ]

     Bức tranh của chàng Em này khi chưng ra ở Gallery Rex vào thời sơ thủy của kỷ nguyên mới ( Lần đầu tiên TP. HCM này có một Gallery tầm cỡ nhất xứ ) cũng làm cho dư luận xôn xao một thời. Tôi thích lắm nhưng làm gì có tiền mà mua. Lúc đó mà có tiền trả giá năm sáu chỉ hy vọng cũng có thể mua được, nhưng không lấy gì là bảo đảm cho vụ này! Để ở Gallery cỡ phải vài ba tháng chi chi đó. Đến viếng, đa phần là giới yêu thích hội họa kém tiền nhưng thừa thời gian, thấy tranh đẹp đồn năm, thiệu bảy rủ nhau đến ngắm nghía là chủ yếu. Chả một ai hỏi han dạm ngõ gì. Cuối cùng, nghe đâu như là một anh chàng người Balan khoái quá xì tiền ra, ôm chạy về " Warzawa " mất tiêu! Thế là ta lại vơi đi một tác phẩm đẹp trong làng hội họa. Giờ! tấm này mà xuất hiện chắc…phải biết. Đấy! đẹp như thế mà phải đến ngần ấy tháng mới gả được. Đúng hồng nhan đa truân! VN chê cả! Rốt em phải đi lấy chồng ngoại! Khổ thân chưa?   Ủa!? Đang nói về tranh lụa sao đi lòng vòng xa vậy? Ừa nhẩy!!!)

      

     Thị trường tranh lụa, sơn mài cứ như thế! Xôm tụ, ì xèo! Bởi những Việt Kiều sắp thành ra khỏi nước mua mang theo hòng qua được xứ người bán đi làm vốn dắt lưng. Việt Kiều đã thành, có dịp về thăm cố hương mua đem về bán kiếm chút lãi bù tiền tàu xe. Ôi! Thật rôm rả làm sao ấy! Đó là chưa kể đến một số tay nhạy bén, hiểu biết được thời vụ, nắm bắt được thị trường bay về săn lùng nhửng món có giá trị cao mang ra nước ngoài bán lời khẳm! Thử hỏi đang lúc khó khăn, miếng ăn không đủ, hơi sức đâu mà chơi cổ ngoạn. Cần miếng ăn! Cái gì cũng bán, giá nào cũng thảy! Như vậy làm sao mà thiệu giá cao cho được? Gia đình nào có phúc ấm tổ tiên để lại được ít món thì cố nghe ngóng xem có anh nào muốn mua hay có anh chàng Việt Kiều nào về có máu mua bán, cố cạy cục làm quen, hoặc nhờ mối lái bán dùm. Nghĩ mà càng thấy buồn cho cái thân lỡ sinh ra trong trời đất, khổ vì miếng ăn, cái mặc! Than ôi!!! Đấy cứ cái kiểu ấy thì làm sao mà không bị chúng nó bóp! Cũng chả trách ai được! Thời buổi gạo châu củi quế! Đồng tiền phân bạc tìm không ra, mò không thấy. Một chỉ vàng, qui ra bốn năm trăm đồng, cả gia đình năm sáu cái miệng há ra ăn được cả tháng đôi khi còn dư! Một căn Villa cỡ 5,6 trăm mét vuông bán chừng sáu, bảy cây vàng là cùng. Villa còn ế độ như thế thì những món đồ cổ có sá chi! Thị trường chỉ tuyền người bán. Túc tắc người mua, nó phải thế thôi! Qui luật cung cầu là vậy. Ai cũng biết là rẻ đấy, có tiền mua không? Thế mới đau!

         Trở lại cái chuyện “Tái ông thất mã” của tôi. Như đã nói ở trên, cái sự lẳng nhẳng lằng nhằng của miếng ăn, cái mặc nó hành cái thân. Bụng đói, chân bò. Nghề ngỗng chả có nên sống bằng cái sự tự phát tư duy của bản thân. Kế sinh nhai lúc này là bán sách báo cũ. Cái nghề này không thể làm cho anh giàu có về tiền tài, nó chỉ giúp anh có miếng cơm, manh áo, nếu anh chịu thương, chịu khó, hoặc biết cách khai thác, nó cũng có thề giúp cho anh nở cái đầu, sáng cái dạ! Cũng chính cái nghề sách cũ này nó tạo điều kiện thuận lợi cho tôi lãnh hội được biết bao điều hay. Tôi có nhiều dịp được mời vào nhà của đủ mọi thành phần xã hội. Có những nơi lúc bình thường chắc không ai rảnh để mời tôi vào nhà. Để làm gì?! Chính vì có được những cơ hội này, tôi có dịp học hỏi thêm qua sự trao đổi với các chủ nhân của những tủ đầy ắp sách quí hay có cơ hội mua lại những món trang trí trong nhà mà họ đã chán đem về bán để kiếm lời. Trong bao la chuyện linh tinh này có dính dáng đến tranh, món tôi ưa thích từ khi còn đi học. Thế là vào nhà người ta mục đích chính là mua sách cũ, nhưng thấy có tranh treo trên tường, cứ hỏi đại. Nếu bán thì mua, không thì thôi mất gì tiếng nói! Gặp trường hợp giá cả căng quá, thì dẫn người hiểu biết hơn đến mua, rồi cho mình huê hồng. [Cái dzụ này phải thật cẩn thận! Coi chừng bị tiêu lòn! Nhớ phải chọn mặt gởi vàng ].
    
        Trong làng môi giới, cơ hội. Người thuộc hàng sư phụ phải kể đến ông “ Tú xuất ”. Một trí thức trước 1975.Đích thị không phải cụ Tú Xuất trong truyện cười dân gian đâu. Để tránh hiểu nhầm giữa chuyện xưa và chuyện đời nay nên chữ  “xuất” sẽ không viết hoa để phân biệt ).
      Tú là cái tên thường gọi được chính quyền xác nhận. Được đánh máy mổ vào tờ giấy có tên khai sinh. Chữ “ xuất ” là cái danh hiệu đính theo sau cái tên tục, một chỉ danh đánh dấu cái mốc hay sự kiện đặc biệt đã xảy ra trong cuộc đời của đương sự hay là khi giao tiếp với giới cùng chiếu, họ gắn vào để phận biệt với người khác trùng tên. Chữ "xuất". Không hiểu còn có lý do nào khác tác động hay chỉ vì một câu nói vu vơ “ Chúa đã bỏ loài người…” rao trong một ca khúc của nhạc sĩ Trịnh công Sơn, đã tác động vào tâm thức người phàm mang tên Thánh như ông, khiến ông nản lòng mà rời khỏi Chủng viện để bước chân vào cõi người ta. ( Có lẽ chữ “ xuất ” rơi vào tình huống này ).
      Chính căn bản của thời gian tu học nơi đất Thánh đã giúp ông phát huy được tính năng thông tuệ của mình nơi kiếp sống trần tục. Thông thạo hai ba ngoại ngữ. Hiểu biết rộng trong kho tàng sách cũ quí hiếm có giá trị từ khi còn mài đũng quần trong Tu Viện thông qua tàng thư của Nhà Dòng . Với số vốn tự có đó, cộng thêm sự lăn lộn vào chốn văn hóa đô hội tuôn trào sau mùa Giải Phóng Miền Nam. Ông lăn xả không chừa một lãnh vực nào trong mảng văn học và nghệ thuật. Với cái mã trí thức làm lợi thế, cũng là bàn đạp thuận lợi giúp cho sự giao tiếp nhân rộng ra giữa ông với giới học thuật, nghiên cứu uyên bác khắp nơi trong cả nước. Đã thế ông lại thường xuyên va chạm với những hảo thủ sừng nanh của làng sách cũ! Càng giúp ông tăng thêm thành công lực, hỏa hầu kinh nghiệm. Với bản lãnh tuyệt đích như thế! Ông dư thừa trí trá để hành tẩu trên chốn giang hồ được cho là hiểm ác, đầy cạm bẫy! Không hề chùn tay kiêng dè! Chỉ có chết với ông! Chứ ông chả chết với ai cả!).
          Ông rất tự hào về nghề nghiệp, cũng như bản lãnh của mình. Đã từng có dạo ông cho in hẳn trên danh thiếp của mình là nhà " sưu tập hộ " nữa đấy! Với ông! Hễ anh có tiền thì cái gì tôi cũng có thể đáp ứng và phục vụ tận tình. Cũng có tin đồn không mấy gì tốt đẹp… lan truyền… 
       - Úi dào! Cái bọn “ Trâu cột ghét trâu ăn ” ấy mà! Một giọng thật nhỏ nhẻ truyền thống ngàn năm văn vật, của nhà trí thức, thật dễ nghe cộng thêm cái nhún vai dáng vẻ bất kể cái sự đời và không bao giờ thiếu động tác hai tay bợ vào sợi nịt quần kéo nhẹ lên làm dáng …một sự phản kháng thật nhẹ nhàng của người lịch lãm trí thức rất màu Hà Nội …Muốn hiểu sao hiểu...
           Trong làng sách báo cũ, tranh cũ từ Nam ra Bắc quẹo dzô miền Trung, không ai lại có thể dám nói là không biết đến ông. Chỉ có mấy chú hai lúa dưới mới lên, bạch đinh, lính trơn, Đơ dèm cùi bắp, lính mới nhập ngũ hoặc là lũ không màng đến chữ nghĩa là gì mới dám hở môi mà nói càn “ Không biết ” về núi Thái Sơn lù lù giữa chợ. ( Như thế là phạm thánh nghiêm trọng đấy ).
          Vào những khi vi hành giao tiếp. Mọi người khó có ai nắm rõ được một thân thể xương nhiều thịt ít của ông ra sao, vì nó luôn ẩn trong bộ cánh thật bảnh bao, chải chuốt, áo bắn vào thùng nịt niếc cẩn thận, tay cài “ Măng Sết” hẳn hòi. Rất ít khi thấy ông mặc áo sơ mi cộc có lẽ do tránh việc phô bày sự khẳng khiu của đôi tay cán vá. Với cái đầu phủ tóc hai “ lai ” phù hợp với độ tuổi, được vuốt cẩn trọng bằng “Bi dăng tin” sát sạt hai bên mang tai, hơi bồng bồng phía vầng trán, rẽ ngôi lệch hai, tám chăm chút nom thật thời trang của thập niên 50. Đã thế trang bị cho đôi mắt là cặp kính lão gọng đồi mồi xịn sang trọng, làm cho khuôn mặt xương xương thêm phần góc cạnh, càng lộ rõ vẻ trí thức đĩnh ngộ, hoắm hẳn cả ra. Cuối cùng chạm đất là đôi giày da khi nâu, khi đen, bóng loáng như  váy vải Mỹ A của mấy chị Chà Dzà hay Căm pua Chia sồn sồn gì đó thường mặc những khi đi phố bán vải. Khi tếch khỏi phủ đường đi vi hành, cậu chĩnh chọe ngự trên chiếc xe xích lô đạp túc tắc đầy khách khí phong lưu công tử thuở nào! Làm tăng thêm vẻ đạo mạo, trí tuệ nghiêm cẩn của chàng công tử miệt Phú Nhuận hồi nay. Lẩy một câu Kiều của cụ Nguyễn Du là ra ngay thôi.        
                                   “ Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.”
    ( Mấy trăm năm trước mà cụ Nguyễn Du đã biết được con cháu mình sau này nó ăn mặc ra sao! Bái phục!!! Bái phục!!!)

      Những lần gặp nhau giữa tôi và ông Tú xuất vào giai đoạn sơ giao. Quả tình mà nói! Tôi đã dành cho ông nhiều sự hâm mộ, lẫn kính nể. Với phong cách, dáng vẻ lịch lãm, điệu bộ nghiêm cẩn luôn toát ra bên ngoài như thế, có lẽ không riêng gì tôi mà những ai mới tiếp xúc với ông đều có cảm nghĩ như vậy!
      Một hôm. Ông Tú tìm đến chỗ tôi đang hành nghề buôn bán ở hiệu sách Lê Phan đường Phạm ngũ Lão Quận I, cùng lời đề nghị mua lại  bốn tấm tranh. Một tấm sơn mài " Đình làng và tư tưởng Việt Nho "  thực hiện trên gỗ mít. Có kích thước: 60cm x 90cm. Của họa sĩ Lê Thy. Hai  tấm sơn dầu trên bố " Hoa phượng đỏ". Có kích thước: 65cm x 95cm. " Buổi sáng sớm ". Có kích thước: 40cm x 65cm đều của họa sĩ Nguyễn trí Minh. Một tấm cũng sơn dầu trên bố vẽ phong cảnh cỡ 35cm x 45cm của họa sĩ Vũ Hối. Cái giá ông đưa ra khá hấp dẫn: Một lượng vàng y. Thời điểm này một cây lớn lắm các cụ ạ! Nếu cầm ra ngoại thành mua đất lúc đó để đến…bây giờ thì phải biết. Nhưng chả ai dám làm chuyện này? Bản thân tôi lúc ấy cũng rét. Không một ai có đủ dũng khí mà làm chuyện như thế.  Ai có can đảm cắt hộ khẩu để ra ngoại thành? Chỉ nghe mình được đề nghị thôi đã thấy xanh sao vàng vọt rồi. Bất cứ giá nào cũng phải bám trụ ở thành phố. Ai nói gì cũng mặc, cứ như điếc bẩm sinh. Nhiều người đã nhiệt tình dặn dò nhau như thế! Được nhập khẩu thành phố Saigòn lúc này cứ như thể lên thiên đường. Hơn cả trúng số nữa cơ! Quả là một thời điểm đầy ấn tượng! Ấy vậy đó, càng sợ nó lại càng vấy vào mình, thế mới đau. Chính thị ngay tôi lại bị du vào chốn này. Ngây thơ! Hay tại mắt to hơn người?.[ Thật đấy! Nhiều người thường bảo là tôi có cặp mắt to!] Đành đoạn xâm mình, tỏ dáng hiên ngang giơ cái đầu “ Voi” đi cắt khẩu cái rột mất không quá hai tiếng đồng hồ đi về. Chạy một phát về tận Đức Huệ, Long An, để huấn nhục mất hơn hai năm, chịu thương chịu khó cày xâu, cuốc bẫm học thành thạo được cái nghề “ Hết gạo chạy rông. Nhất nông nhì Sĩ ”. Tốt nghiệp thuộc loại khá! Nhưng sau rốt chả tìm đươc mảnh đất nào chịu để mình thử nghiệm tài năng, để được phát huy cái truyền thống “ Phi nông bất ổn” như cụ Lê quí Đôn đã dạy, mà rồi sau đó lận cái đuôi “chuột” chui về thành lẩn khuất phải mất đến ba, bốn năm trời mới lại viết được cái tên mình vào sổ để hòng chứng minh với mọi người chung quanh rằng mình là con dân có tên trong hộ khẩu của một thành phố lớn nhất nhì của đất nước. ( Ê! Ê!!! Trật đường rồi! Quay… Thời buổi thật là trái khoáy! Hay! Hay! Mảnh đất con con cắm dùi chưa có. Một cây vàng mua khối đất chả màng. Lại thèm mua chiếc Honda 78 còn thiếu ba, năm chỉ! Thật nực cười ).
      Buổi tối hôm ấy, ghi nhớ nhập tâm lời đề nghị của ông Tú xuất. Tôi về đến nhà chẳng kịp thay quần áo triển khai ngay với vợ về lời đề nghị ngọt ngào không chút gì mà có thể bảo là khiếm nhã cho được của ông Tú xuất… Không đắn đo suy nghĩ lấy một tí để được gọi là khôn và khéo. Vợ tôi phang liền.
      - Bán đi anh! Có một cây rồi ráng chạy mượn thêm mấy chỉ nữa phụ vào mua cái xe Honda 78. chạy cho đỡ cực, chứ  mỗi lần về thăm ngoại đạp cái xe đạp mệt quá! [ Chỉ dám nghĩ đến chiếc 78, chứ còn Cup 81 trở lên thì chỉ là niềm mơ về tương lai! ]. Ôi!!! Những lời nói của mụ vợ trẻ nghe thật chí phải, sao dễ nghe đến như vậy kia chứ! Thật là “ Đồng thanh, tương khí, đồng chí cùng chồng ”. Rất ư là thực dụng làm sao ấy. Chính ngay trái tim đỏ trong lồng ngực tối om của tôi nó cũng mách bảo. “ Hãy mua đi cho tớ đỡ cực, mỗi lần bạn đạp xa cả chục cây số, tôi làm việc mệt lắm! đây là niềm mơ rất chính đáng mà!” Mặc dầu lúc này tôi chưa có chỗ để an cư, cũng do ỷ lại đã có chốn nương thân là ở chung với mẹ và gia đình người anh ruột. Ăn thì nhiều chứ ở bao nhiêu! Mí lỵ mới có một đứa lo gì. Khi nào có nhiều nhiều hẵng tính! Thế rồi! Với những nghĩ suy cùng lời khuyên chí tình, chí cốt ấy của vợ, sao lại không nghe nào? Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn. Phải nghe thôi! Nhất vợ, Nhì trời!” mà.
      Ngày hôm sau, đúng như lời hẹn ông Tú xuất. đến. Gặp nhau tại hiệu sách. Nhưng thay vì nói với ông Tú xuất. " một cây ", tôi ướm lời đòi " cây hai ", theo ý lòng tham của mình là vòi thêm được chút nào hay chút nấy. Không chịu thì một cây cũng bán có mất mát gì mà lo? Không ngờ ông Tú xuất chả quan tâm gì đến điều tôi đòi hỏi, chỉ nói mượn tôi mấy tấm hình chụp những tấm tranh. Theo như ý của ông là muốn đem về cho người bạn xem vì làm ăn chung nên phải tham khảo ý kiến người ta một chút chứ không sau này được lãi to thì chả sao, không có lãi lại đổ thừa, kẹt cho ông lắm lắm. Người nhớn với nhau cả, sợ những rắc rối có thể xảy ra mai hậu đâm ra khó ăn, khó nói. Quá hợp lý đi chứ! Nghiêm túc. Rất ư là bài bản!
      Vì không có sẵn, tôi phải nhờ người em bà con đến chụp lại mấy bức tranh rồi lại còn đem đi rửa nữa, nên phải mất hết mấy hôm. Sau  đó mới có hình để đưa cho ông Tú xuất.. Kể từ lúc đưa mấy tấm hình, trong lòng tôi mừng khấp khởi, sắp có Honda đi rồi, không còn phải còng lưng, rạc chân mà đạp nữa.[ Lại sắp. Ăn cháo đá bát, Qua cầu rút ván đây!] Thật sung sướng cái cuộc đời. [Có ai thấu hiểu cho tâm trạng kẻ khó chăng?].
      “ Đồng sàng, dị mộng” cùng chỗ bán mà có hai niềm mơ! Hai người bạn cùng  bán chung ở quầy sách chỉ mong sao có doanh thu cao cao để cuối tuần được chia lương kha khá. Còn tôi chỉ thấy thời gian sao chậm chạp thế, cứ như hàng thế kỷ không bằng. Có phải chăng sự chờ đợi bao giờ cũng lê thê, lượt thượt như vậy không?


      LE THY. Đình làng và tư tưởng Việt Nho. Sơn mài trên gỗ mit. Kích thước: 60 x 90cm. Năm 1950.


 NGUYEN TRI MINH.  Sáng sớm. Sơn dầu trên bố. Kích thước: 45 x 65cm. Vẽ năm: 1965 - 1970.


         VŨ HỐI. Phong cảnh. Sơn dầu trên bố. Cỡ: 35cm x 45cm. ( Đã bán ở Gallery Rex ).
     
         Rồi! Đã bốn ngày qua chứ ít sao? Nhác thấy chiếc xích lô quen dáng đỗ xịch trước cửa hàng, động tác nâng đứng cái bánh sau lên, chúc cái thùng phía trước xuống, để khi khách bước ra đỡ nhọc, khỏi vấp phải càng xe.[ Lúc này mà té, chỉ có thánh mới đỡ được!] Một cung cách của những bác tài biết cách chiều khách đứng tuổi. Có lẽ ngồi trên xe lâu sợ quần áo bị xốc xếch hay là thói quen chả biết. Khi vừa bước rời khỏi xe, miệng vừa nói như dặn dò bác xích lô điều gì, hai tay đã thấy nắm vào sợi nịt thắt lưng kéo nhẹ cái  quần lên, xốc lại cái áo, vuốt vuốt cái ni quần cho nghiêm chỉnh, giơ tay lên nâng nhẹ cái mục kỉnh, chỉnh qua lại cho ngay ngắn rồi khoan thai bước hướng về cửa hàng. Một sự nôn nao không biết tự ở đâu kéo đến trong lòng tôi khi thấy bóng lẫn người của ông Tú xuất. tự đàng xa cho đến lúc đổ ập vào trong quầy. Hồi hộp khó tả!!! Rồi cũng tới thôi! Nhưng điều mang đến không phải là sự hồ hởi, lâng lâng mà cả là một sự hụt hẫng, thất vọng não nề, đánh huỵch!!!.[ Rất may không bị trúng gió.] 
         Sao dzậy ?!?! Ông Tú xuất. nói là bạn của ổng không muốn mua hết, chỉ muốn mua một tấm “ Hoa phượng đỏ” của Nguyễn trí Minh mà thôi! Than ôi! Cả một trời vần vũ xám ngoẹt đầy thất vọng. Uổng phí mấy ngày đợi mong. Tàn giấc mơ hoa! Đứt phim giấc mộng Cup78.
      - Thế tại sao bữa trước anh đòi mua cả bốn tấm nay còn một? Tôi hơi quê hỏi khơi.
      - Ai biết.!!!... Đành cầm bốn tấm hình về cất chờ mối khác vậy, chứ biết làm sao!!! Cho mãi đến sau này, qua những lời đi tiếng lại. Tôi mới vỡ lẽ ra là ông Tú xuất. đã mượn những bức hình chụp lại bốn tấm tranh của tôi đi gạ bán cho một số  nhàn khách có máu, chứ thực ra ông đâu có hùn hạp gì với ai. Trước tới giờ chỉ chơi Solo một mình. Vẫn là một cách nói khéo của một người từng trải, dồi dào những kinh nghiệm để cầm mẫu của người đi chào hàng mà người ta không biết mình nhảy cò cò. Tuyệt khéo![ Đã bảo là lúc này người ta chỉ sính tranh lụa với sơn mài thôi, không ai chơi tranh sơn dầu cả, nói không nghe!]
      - Ông Tú xuất hả? Anh không biết ổng sao? Chuyên viên chạy cò đó! Thấy anh có quyển sách hay, quí hoặc biết anh có bức tranh giá trị lớn. Sẽ dẫn đến hai trường hợp xảy ra. Nếu đã có “đài” cài sẵn hỏi giá “ Bèo” thương lượng ổng mua luôn. Chưa có “đài”. “ Cứng ”.Vẫn trả giá. “Hượm!” về lấy tiền đã. Thời gian về lấy tiền này cũng chính là lúc ổng đi dò “đài”. Có nhiều lúc “Đài” xa, tín hiệu yếu khó bắt phải dò mất cả tuần. Đúng tần số. Điện mạnh. Phát khỏe. Quay ra hốt !
     “ - Chết! Chết! Quên béng đi mất! Về nhà xem lại mới biết có rồi! Thông cảm! Xin lỗi! Xin lỗi. Trí nhớ dạo này kém quá!”
      Phải hiểu. Trật “đài” rồi.  Rất ít khi ổng mua lắm. Trừ những món ổng biết dù bán đổ đi cũng không lỗ mới mua. Còn ngoài ra tuyền làm môi giới ăn huê hồng không hà! Chắc ăn, cứng như bắp nếp nguội dzậy đó!. Một người bạn mới quen rành sáu câu về ổng đã nói với tôi như thế đấy. 
          

(Còn tiếp)



17 - CÓ CÒN HƠN KHÔNG. 

Thứ Sáu, 29 tháng 11, 2013

16 - NGUYỄN PHI HOANH VẼ " ĐƯỜNG ĐI LƯƠNG PHÚ - MỸ THO " NĂM 1937

              NGUYỄN PHI HOANH  VẼ  " ĐƯỜNG ĐI LƯƠNG PHÚ - MỸ THO "  NĂM 1937.
                      ( Hình ảnh Quốc lộ 1. Đoạn Lương Phú-Mỹ Tho vào năm 1937 ).


                  Nguyễn phi Hoanh (1904 - 2001). Đường đi Lương Phú - Mỹ Tho. 
                  Sơn dầu trên bố. 60cm x 90cm. Vẽ năm 1937.  Chữ ký nằm ở đáy góc phải.
  ( Địa danh Lương Phú nằm trên đường QL1. Giữa Tân An và Mỹ Tho. Xưa gọi là Lộ số 1).

       Bất cứ cái gì trên cõi đời này nó cũng có thể giúp ích cho mình nếu biết sử dụng khai thác nó đúng chỗ. Cho nên các bức tranh nó cũng không thế nào vượt qua khỏi những qui luật này. Nó cũng là một nhịp cầu giúp ta mở rộng quan hệ với mọi người. Nhất là những tác phẩm có giá trị lớn, ai cũng muốn một lần thưởng ngoạn. Cái lợi như vậy, cái hại cũng đến ngay nếu ta không biết chọn lọc.
      Trong số tranh tôi may mắn mua và đang giữ, có một tấm của họa sĩ Nguyễn phi Hoanh [1904 - 2001]. Ông là họa sĩ chuyên vẽ tranh phong cảnh rất đẹp, là một trong số những họa sĩ nổi tiếng loại hàng đầu vào giai đoạn khởi nguyên của nền hội họa theo trường phái Tây Phương tại VN. Ông theo học hội họa bên Pháp. Từng đoạt giải nhất trong một kỳ triển lãm ở  trời Tây khi còn theo học nơi đây. Từng đứng lớp dạy hội họa tại Hà Nội trong thời kỳ chiến tranh. Cũng là đại biểu Quốc Hội khóa 1 của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Đã có viết hai quyển sách phê bình về mỹ thuật Việt Nam và Thế Giới.



Hình 01. Bìa cuốn " Lược sử mỹ thật Việt Nam ". NXB. Khoa Học Xã Hội.
Tác giả: Nguyễn phi Hoanh. Bản in lần đầu năm 1971.


Hình 01bis. Chữ ký tác giả và đề tặng ông Vũ Khiêu.



Hình 02. Bìa cuốn " Một số nền mỹ thuật thế giới ". NXB. Văn Hóa. 
Tác giả: Nguyễn phi Hoanh. Bản in năm 1978.

       Tôi được hân hạnh biết họa sĩ Nguyễn phi Hoanh qua sự giới thiệu của Giáo Sư Nguyễn văn Y. Trước 1975 ông Y dạy ở Đại Học Văn Khoa Saigon vừa viết sách (Tôi chỉ còn nhớ cuốn "Thơ vịnh Kiều"). Ông là  chuyên gia sưu tầm sách. Sở hữu rất nhiều loại sách quí hiếm về Hán Nôm và thời Pháp thuộc. Ông cũng sưu tập cả tranh nữa. Trong giới mua bán sách cũ vào giai đoạn này, khi nói đến tên “ Ông Y xe đạp” ai cũng biết. Vì ông có thói quen xử dụng xe đạp rẻo khắp thành phố để sưu tầm những gì ông thích. Thỉnh thoảng những người biết ông, họ kháo với nhau là đã từng thấy ông xuất hiện ở một số tỉnh lân cận, cũng vẫn tà tà trên yên chiếc xe đạp sườn ngang cố hữu cùng cái nón lưỡi trai của lính chế độ cũ trên đầu che nắng tránh mưa. Để được thuận tiện, đáp ứng cho nhu cầu chuyên chở những gì thu tóm được. Cái giỏ inox phía trước ghi đông được thiết kế rất chắc chắn, tự thân có thể chịu đựng được sức nặng trên chục ký lô và trong giỏ luôn có một túi vải được xếp nếp rất nghiêm cẩn, dùng để đựng những gì ông mua được. Không hề thiếu cái áo mưa mỗi khi mùa mưa đến. 
      Khoảng năm 1987. Có lần ông Y gặp tôi nói rằng tác giả của bức tranh “ Hai con bò kéo xe ”.[ tôi thường gọi bức tranh của ông Hoanh cái tên như vậy.] muốn đến nhà để được xem lại tác phẩm của mình sau gần năm mươi năm lưu lạc. Nhất trí thôi! Có mất gì đâu? Biết thêm một người càng tốt chứ sao. Huống chi đây lại là tác giả của một bức tranh đẹp, có giá trị cao, rất quí hiếm mà mình có may mắn lưu giữ. Vả lại ông Hoanh là người có tuổi tác cũng như địa vị trong xã hội. Gặp để hiểu biết thêm về tác phẩm của ông, phát hiện thêm điều gì mới lạ thì sao?
      Vào một buổi sáng. Hai ông Y và Hoanh đến nhà tôi chơi. Lúc này tôi còn ở đường Nguyễn thiện Thuật trong con hẻm 16/55. thuộc Quận 3. Saigon. Nhìn bức tranh một lúc như hồi ức. Ông cho biết là đã thực hiện tấm tranh này sau khi ở Pháp về. Ông bỏ Pháp trốn về VN vì cái tội đã dám hoạt động chống lại chính quyền sở tại ngay trên đất của họ. Chính vì sự chơi trèo này đã làm họ không vui nên đã tìm cách cho ông vào một nơi kín đáo để dạy dỗ vài bài học cho ông mềm cái đầu. Biết vậy! Ông không muốn bị trù dập và nỗi cô đơn hành hạ mình. Đành phải tìm cách rời khỏi chốn du học, cái nơi mà ông cùng gia đình kỳ vọng dựa vào nó để có một tương lai sáng lạn. Bây giờ! Chính cái nơi phồn hoa đô hội rực sáng nền văn minh nhân loại này lại đang có mưu đồ hãm hại mình. Đành bỏ dở việc học hành “phắng” về nơi chôn nhau cắt rốn! Ông đã không đạt được ý nguyện là sau này thành tài quay về giúp nước. Ông đã phải bỏ ngang vì thái độ yêu nước của mình. Đã có máu cứng đầu nên ở ngay trên đất mẹ tại Saigòn chứ chả đâu xa, ông cũng không yên thân với bọn mật thám, bọn họ thích cho cái còng số tám vào đôi tay tài hoa của ông, để ông bớt quậy! Thế là ông phải tháo về Bến Tre. Nơi đây! Tại mảnh đất này, cha mẹ đã chôn cái nhau rốn của ông khi mới ra đời! Cũng như nó từng cưu mang lúc còn bé thơ! Nhưng ông đã phải rời xa nó một thời gian dài do việc tầm học. Nay vì an nguy bản thân, ông quay về chốn cũ. Hy vọng nơi này có thể giúp ông thoát khỏi cái mõm đánh hơi của những con chó săn. Những ngày nơi đây thật nhàn nhã, thật rảnh rang và quá là thảnh thơi! Với cái tuổi trai tráng, sức dài vai rộng, làm sao ông lại có thể ngồi yên. Đã vậy máu nhà nghề trỗi dậy, ông mang đồ nghề, đi loanh quanh những vùng phụ cận, tìm những nơi hữu tình xinh đẹp của quê hương mà vẽ! Trong đó có Mỹ Tho, chốn ông đã có thời gian theo học thuở còn thơ! Với nghệ thuật, ông đã có những mảng màu ngọt ngào, đan thanh của xứ sở, những nét đặc thù của địa phương. Ông đã để lại cho những thế hệ sau thấy được những gì đã xảy ra vào thời của mình! Không thấy ông nhắc đến chuyện đặt tên cho bức tranh là gì! Chỉ nghe ông nói “  Tôi vẽ bức tranh này trên con đường số 1, đoạn từ Lương Phú nhìn về Mỹ Tho! Tấm này tôi tặng cho BS Bổn mà!” [ Ngay chóc! Tôi mua tấm tranh này ở một căn biệt thự khá bề thế. Số 40. Đường Phạm ngọc Thạch. Quận 1 Saigon.  Trong lúc chọn lựa để  mua tôi có thấy một số vật dụng bày trong phòng có ghi chữ Bổn. Lúc đó tôi cũng chả để ý, nhưng sau này nghe ông Hoanh nói mới biết đó là nhà của BS Bổn cũng là bạn của ông. 
     Tôi mua được bức này có lẽ cũng là một cái duyên. Năm 1985 lúc còn bán sách ở quầy số 64 tại chợ sách cũ đường Đặng thị Nhu. Quận I. Saigon. Một người khách ngang lứa muốn mua cuốn tự điển " Webster's New Worlds " cũ. Loại này lúc bình thường không thiếu. Tự nhiên  dạo này khá khan trên thị trường. Tôi hẹn tìm được sẽ đem đến tận nhà... Một hành cử hiếm hoi cho chuyện chỉ có một quyển sách không là bao nhiêu tiền mà phải mang giao đến tận nhà. Không hiểu sao lúc đó tôi lại hứa là sẽ đáp ứng. Chính vì điều này mà tôi cho nó là cái duyên. Nếu không có cuốn tự điển bắc cầu thì làm sao tôi có điều kiện vào nhà BS Bổn mà gặp bức tranh để mà mua? Theo gót chủ nhân vào căn villa để giao sách và lấy tiền. Một sảnh đường khá rộng. Mọi sự bày ra trước mắt có vẻ như đang dọn nhà, đồ đạc bày lủ khủ khắp chốn la liệt dưới đất. Tấm tranh để dựa ở góc nhà, khung bản to cỡ 10cm sơn một màu đen tuyền, mặt tranh bị sút đinh bên góc phải, bố lật úp che hết một phần tư bức tranh nhưng vẫn còn nhìn thấy một phong cảnh rực rỡ, rất đẹp, góc phải bức tranh có ghi tên  Nguyễn phi Hoanh, bên dưới tên tác giả có ghi năm 1937. Khổ tranh cũng khá to cỡ 60cm x 90cm. Tôi đã thương lượng bớt một thêm hai với hai anh bạn chủ nhà, cuối cùng phải dốc hết túi và đã thỉnh được. Hết bốn trăm đồng [năm 1985], chở bằng xe xích lô hết năm đồng, về đến nhà lấy tiền trả sau vì cạn láng! Có một chuyện mà tôi vẫn còn tiếc mãi khi đã không chịu mua luôn bức tự họa bằng sơn dầu, khá to cỡ bằng người thật. Chân dung tự họa mà ông Hoanh đã vẽ khi đang còn trẻ, cỡ trên ba mươi tuổi, mặc quần shoọt cầm cây vợt tenis,  Chỉ vì nhà quá chật chội, mua về không biết để đâu! ( Cứ xem như là không có duyên với nó đi! ).
      Rõ ràng có gặp được tác giả mới biết đầu đuôi gốc ngọn, lý lịch của tấm tranh, không thì cứ chỉ biết gọi “ hai bò kéo xe ”. Bây giờ được chính tác giả xác nhận nơi vẽ, có địa danh hẳn hoi.[ Có một tư liệu về đường xá, xe cộ của Tỉnh Định Tường.Trong đó ghi rõ là. Mỗi ngày có một chuyến  duy nhất chạy từ bến xe Mới ở Mỹ Tho đến ngã tư Lương Phú bằng xe Lambretta. Tài liệu này phát hành khoảng năm 196..không nhớ rõ. ( Đã tìm được và xin bổ sung bên dưới ) ]. Như thế bức tranh này không phải tưởng tượng ra mà vẽ đâu nhé! 
      Chúng ta cần phân biệt cẩn thận trong việc phân định giá trị tác phẩm hội họa về vẽ phong cảnh. Đó là vẽ cảnh thật và vẽ tưởng tượng. Giá trị của hai loại này khác nhau rất xa. Loại vẽ tưởng tượng chỉ có gia trị về mặt mỹ thuật đơn thuần. Còn loại vẽ phong cảnh thật. Ngoài giá trị mỹ thuật ra, nó còn có giá trị về mặt lịch sử địa phương nữa! Mặt này rất quan trọng, nó là nguồn tư liệu cho những thế hệ mai sau dùng để nghiên cứu, tìm hiểu, giới thiệu, minh họa về cách sinh hoạt, địa dư chí của thời đã qua bằng hình ảnh cụ thể, rõ ràng. Phải đánh giá cho đúng về mặt này đừng đánh đồng để rồi hối không kịp đấy! 


               Phan tư Phước ( A. Phan ). Con kênh nằm sau lưng chợ Bình Tây
               Sơn dầu trên bố. 50cm x 65cm. năm 1957.

   Vẽ cảnh thật nhìn từ phía sau chợ Bình Tây. Nhờ có bức tranh này mà thế hệ mai sau biết được con kênh sau lưng chợ đã bị lấp mất.



       Lê Trung. Mùa Thu vàng. Sơn dầu/bố. 50cm x 64cm. Chữ ký đáy góc phải
       Phong cảnh đẹp nhưng man tính chất chung chung. Không có địa danh rõ ràng.

       Trong cuốn “ Tự vị Tiếng nói Miền Nam ” của cụ Vương hồng Sển, do nhà xuất bản Trẻ phát hành năm 1999. Ở phần nói về Mỹ Tho, trang 198 cột trái dòng thứ ba có ghi:
      “ Tổng Thạnh Quơn có 4 con lộ : Lộ số 1. Mỹ Tho đi Tân An chạy ngang qua Lương Phú…Lộ số 2 đi…v.v…”. 
      


Tư liệu của Tỉnh Định Tường năm 1963 về các bến xe và những chặng đường xe sẽ chạy qua có nhắc đến tuyến xe lambretta từ Mỹ Tho đến ngã tư Lương Phú...

     Rõ ràng con lộ chính ( Quốc Lộ I ) có chạy qua  địa danh Lương Phú nếu ta đi từ Mỹ Tho đến Tân An hoặc ngược lại. Một địa danh có thật chứ không phải tưởng tượng.

      Ngày nay trên đường từ Cai Lậy đi Tp HCM. Đến đoạn rẽ trái dẫn vào đường cao tốc. Chạy chừng vài cây số đến gần trạm thu phí, Tại vòng xoay này, nếu nhìn về mé tay phải sẽ thấy một cái bảng hướng dẫn ghi  Cao tốc…Lương Phú - Quốc lộ 1A. ( theo ngã ba này chạy quẹo vào đoạn đường có ghi tên Lương Phú, ta sẽ ra đoạn QL1A thuộc Tỉnh Long An ).



   Bảng hướng dẫn rẽ phải đi Lương Phú trên QL1. Trước khi rẽ trái vào đường cao tốc.( Ảnh chụp từ trên xe ).
        
    

        Nếu ta đi theo QL1A từ Saigon về Mỹ Tho. Khi qua khỏi Tân An ( Long An ). Bên tay phải QL1A này có đoạn vẫn còn thấy rõ một con kênh nhỏ nằm sát lề chạy cặp theo con đường dài tận về phía Mỹ Tho. Có đoạn ta chỉ còn thấy dấu vết do đã bị lấp đi để lấy đường trong nhà ra Quốc lộ I cho thuận tiện.                
        Dựa vào câu của ông nói “ đường đi Lương Phú-Mỹ Tho ”. Ta quan sát trong bức tranh thấy rõ bên  phải có một con rạch nhỏ chạy dọc theo con đường đất, cho thấy vị trí ông Hoanh đứng vẽ  nằm mé ở phải con đường đất trên bờ cỏ sát bên con rạch tại Lương Phú và nơi mút tầm mắt cuối con đường trong tranh là  Mỹ Tho. Chiếc xe và người quẩy gánh đang đi từ phía Mỹ Tho về Lương Phú-Tân An.                  
      Trùng khớp cảnh vẽ và hình ảnh ngoài thực tế. Kết luận. Chính xác đây là một đoạn đường của Quốc lộ 1A từ Lương Phú đi Mỹ Tho vào năm 1937. Tác phẩm này cũng đã cho ta biết QL1A vào thời điểm năm 1937 là con đường đất đỏ.
      Từ ngày nghe ông Hoanh nói, tôi tự đặt tên cho bức tranh là “ Đường đi Lương Phú - Mỹ Tho.” Hay dài dòng thêm tí chút là “Cái nắng trên đường đi Lương Phú - Mỹ Tho ”.
      Từ lúc ban đầu tôi đã có nhận định rằng bức tranh " Đường đi Lương Phú - Mỹ Tho " này có sự nổi trội, đặc sắc hơn một số tác phẩm vẽ phong cảnh của một số họa sĩ tên tuổi khác cùng thời. Chính thế mà tôi hay ngồi ngắm nó mỗi khi có dịp và thấy có sự gần gũi lạ kỳ. Cho đến một buổi tối đang ngồi trước nó thì bị cúp điện. Tôi chợt nhận thấy không gian trong bức tranh rực sáng lên, cả một không gian thật êm ả, dịu dàng, huyền diệu, toàn cảnh như đang sinh hoạt dưới ánh trăng. Từ đó tôi càng chú ý đến nó nhiều hơn, có cảm nhận  sâu sắc hơn. Đã có lúc đứng trước nó hàng giờ thưởng thức thật chậm rãi. Cái ánh sáng của nắng chan hòa đều khắp. Cái nắng  bao trùm trên mọi cảnh vật. Nắng ở trong đám mây, ở trên cánh đồng, ở những hàng cây, bụi cỏ, con kênh, mái nhà, cùng đọng phớt lên những sinh hoạt của con người và động vật. Cái nắng tác động trên mọi thứ, mọi nơi, trên từng centimet vuông mặt bố tạo nên sự sinh động, lung linh đều khắp.  Bức tranh như được phát sáng lên bởi từng vật thể. Bắt mọi thứ phải tự thân nói lên cái chất của chính mình. Ta không thấy được cái nắng cụ thể như ở ngoài đời, nhưng lại thấy được sự ấm áp đó rất rõ qua các mẫu vật trong tranh, qua sự  mô tả bằng sắc độ của những gam màu. Một cái tuyệt đích của tác giả. Ông đã khéo léo kết hợp giữa những mảng màu đậm và nhạt, cho chúng nằm cạnh, đối chọi nhau để chúng bật lên, chìm xuống đập vào mắt người thưởng lãm! Ông khai thác sự tương phản giữa sáng và tối một cách triệt để và đã thành công! Thật táo bạo khi ông cho hai tàng cây thật to, tối om, nằm ngay ở hai điểm vàng trái phải trên, chỗ nhấn mạnh của định luật hội họa, Hai mảng xậm chiếm hơn ba mươi phần trăm diện tích mặt bố nổi lên giữa nền trời xanh lơ xậm, cùng với cánh đồng, vạt cỏ, rặng cây cắt ngang gần nửa bức tranh, trở xuống. Hai mảng màu lạnh xậm tối, khá lớn so với toàn diện tích bức tranh. Tất cả chỉ có mục đích duy nhất là làm cho nổi bật lên những đám mây trắng xóa, chói chan, chen nhau từng từng, lớp lớp đang đùn lên cuồn cuộn từ phía cuối chân trời. Rồi đến những mảng xậm của thảm cỏ bên vệ đường, con kênh cánh đồng phía hai bên đường, kết hợp cùng rặng cây phía xa như cánh rừng bạt ngàn chặn ngang đường chân trời để biểu diễn tôn lên mảng màu nóng là con đường làng đất đỏ sáng lên, bạc đi dưới cái nắng. Sự hun hút của con đường càng tăng lên khi được điểm xuyết bằng những bóng cây đổ nằm vắt ngang tạo thành những vệt cắt, tối nấc thang đuổi nhau chạy dài xa dần, nhỏ lại mút tầm mắt ở cuối đường. Càng nhìn con đường càng như thăm thẳm, như muốn lọt ra ngoài bức tranh! Một điểm nhấn dưới phải trong định luật hội họa được ông  tận dụng thành công, khi đặt mút xa cuối con đường rơi vào điểm này.
       Trong tranh ta thấy cả một trời tĩnh lặng của miền quê, một sự êm đềm, quạnh hiu đã được tác giả làm cho sống dậy khi có bóng dáng sinh hoạt của con người! Với hai con bò bắp thịt vồng lên dưới nắng sớm, đủng đỉnh, chậm chạp kéo chiếc xe thùng bằng gỗ bên trong chất đầy những cái bao căng phồng nặng chịch, đằng trước thùng xe là người điều khiển ngồi nhàn hạ, trái hẳn với hình ảnh một người đàn bà quẩy một gánh nặng  đang lúp súp, thoăn thoắt đi ở phía sau xe. Để cho sự sinh hoạt của con người, không lẫn chìm vào rặng cây phía sau xa. Một căn nhà có mái tranh sáng chói bên vệ đường bên trái, cũng như một tàng cây vàng rực trên cao bên phải, cạnh con kênh. Mảng sáng, nóng của hai phần này được đưa vào giữa làm nền, đã tách hẳn con người cùng cảnh vật khỏi lẫn lộn vào nhau, làm cho những tầng lớp viễn cận càng thêm phong phú, dầy ra, đẩy cho chiều sâu không gian trên con đường làng hun hút hơn, tăng thêm sự sinh động cho toàn cảnh.  Những sinh hoạt của con người cùng cái bóng của chính họ trên con đường làng đất đỏ được vẽ bằng những mảng xậm màu, nổi bật lên trên mặt đường sáng rỡ. Cảnh sinh hoạt này, ông cũng lại đặt vào đúng điểm vàng trái dưới của định luật hội họa. Điểm cận cảnh nhất, trực tiếp đập vào mắt người thưởng ngoạn. Một cách nhấn mạnh, một sự khai thác sáng tối, lẫn tĩnh và động, tạo ra những mâu thuẫn, đối chọi tuyệt vời. Một bố cục về sự tương phản, rất đẳng cấp cả về ý cũng như về hình. Ta có thể xem sự hoạt động của con người trong tranh là trái tim của tác phẩm. Ông đã khai thác đúng mức các điểm vàng nghệ thuật.  Một cái động nhỏ nhoi của con người trong một cái tĩnh thật lớn của đất trời nhưng nó là nhịp sống. Nếu thiếu nó, bức tranh không thề nào trở thành bất hủ được.
            Tóm lại, qua bức tranh này, ta thấy một sự phối hợp rất chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa cái sở học trường lớp với cái thực tại ngoài đời cùng sự tư duy của tác giả đã tạo ra một tác phẩm rất có giá trị nghệ thuật. Theo tôi, ta có thể xem đây là một tác phẩm kinh điển để tham khảo về bố cục, hình thể, bút pháp, cách dụng màu, sự diễn đạt ánh sáng và cả về ý nữa. Một tác phẩm lớn của nền hội họa VN trong thời kỳ mới phôi thai, rất xứng đáng để cho chúng ta trân trọng.
      Sau hết, có thể nói đây là một tác phẩm lớn của nghệ thuật tả thực, cũng như đã đặc tả được cái chất của miền sông nước Nam Bộ giá trị rất cao, không dễ tìm. Không dám đại ngôn, nhưng trong thời gian qua, tôi cũng có hân hạnh được xem qua rất nhiều tác phẩm hội họa VN qua các buổi triển lãm, trong sách báo rồi có nhận xét hơi chủ quan là. Tôi chưa thấy có một tác phẩm hội họa nào cùng thời, vẽ phong cảnh hiện thực mà vượt qua được tấm này của ông Nguyễn phi Hoanh. Nếu có quí vị nào phản đối xin vui lòng chứng minh cho bỉ nhân bỏ cái thói lộng ngôn. Ếch ngồi đáy giếng nhé! Tôi nói cũng không quá lắm đâu! Cứ tìm những tác phẩm khi ông đang trong thời kỳ xung mãn mà xem đi đã, rồi ta sẽ bàn lại!
      Những tác phẩm sau này của ông. Tôi không dám có ý kiến. Chỉ thấy rõ ràng. Cái bút cùn, cái bút mới không thể nào viết đẹp bằng cây bút đã dùng quen ở một thời gian đang độ.


      Ngoài cái lần ông Hoanh đi với ông Nguyễn văn Y đến nhà, thuần ý là chỉ muốn xem lại tác phẩm của mình vẽ cách đây gần năm mươi năm. Sau này ông Hoanh lại có đến với một người, theo ông giới thiệu đó là con trai.(1) [Khi này tôi đã dọn nhà về khu Hòa Hưng]. Ông đến với ý định là xin mua lại tấm “ Cái nắng trên đường đi Lương Phú ở Mỹ Tho.”của ông đã vẽ nó. Qua lời mách bảo của anh Thiện, một cán bộ làm việc tại Bảo tàng Mỹ Thuật ở đường Phó đức Chính. Anh Thiện biết tôi có tấm tranh này, đầu đuôi cũng là do anh họa sĩ Lê Vượng là bạn của tôi cũng là bạn với anh Thiện dẫn đến nhà xem rồi mới xảy ra cớ sự. Rồi có một lần anh Thiện cùng đi với một người làm việc chung cơ quan mà tôi quên mất tên, đến xem lại với mục đích là thẩm định giá trị, hẹn sẽ mua về làm bộ sưu tập cho Bảo tàng, nhưng chưa thấy nói gì! Nay anh Thiện lại đi giới thiệu cho ông Hoanh đến thương lượng với tôi để mua nó. Tôi cũng hơi thắc mắc một tí nhưng cho qua. Rồi chuyện mua bán giữa tôi và ông Hoanh đã không thành vì tôi không có ý định bán nó. Trước lúc ra về ông Hoanh lại đề nghị mời tôi đến nhà xem tranh của ông vẽ đang được lưu giữ tại nhà, nếu được thì cùng trao đổi. Tôi cùng vợ có đến thăm ông trả lễ, đồng thời cũng muốn xem tranh của ông sau này vẽ ra sao! Khi đến mới biết căn nhà của ông nằm ngay sau lưng nhà BS Bổn đường Phạm ngọc Thạch. Quận 1, Nhưng lúc này căn Villa phía trước có lần tôi đã vào và mua được tấm tranh, nay đã trở thành trụ sở của một tờ báo, tôi quên mất tên là báo gì!. Toàn bộ lô tranh ông cho chúng tôi xem, rất xa lạ với những tấm tranh ông vẽ thời trai trẻ. Nếu che đi chữ ký phía dưới tôi sẽ bảo là một ai đó vẽ chứ không phải là ông!. Một cách biệt không thể ngờ được! Hai vợ chồng đã ra về với một nỗi buồn trong lòng tôi. Như vậy chuyện trao đổi cũng không thành nốt! Kể từ đó tôi không có dịp nào gặp lại ông nữa.  Bẵng một thời gian sau, tôi  gặp lại anh Vượng, hôm ấy không biết nói chuyện gì bỗng tôi sực nhớ  về nỗi thắc mắc của mình và đem ra hỏi. Anh Vượng cho tôi biết sở dĩ có chuyện tréo ngoe đó là vì anh Thiện muốn làm một cử chỉ đẹp với thầy của mình. Thay vì trực tiếp mua của tôi, anh lại muốn đền ơn đáp nghĩa với ông Hoanh nên bàn với ông này đến mua của tôi, xong rồi chờ đến dịp mừng thượng thọ. Ông Hoanh sẽ làm một cuộc triển lãm trưng bày tranh của mình trong đó có bức  “Cái nắng trên đường đi Lương Phú ở Mỹ Tho”. Lúc đó Bảo tàng sẽ đứng ra mua cho phải đạo.
      Không hiểu anh Thiện vẫn còn thiết tha với tấm tranh của thày mình hay vì anh cảm nhận được cái nét đẹp trong tranh nên đã nhờ anh Vượng mời tôi. Trước là để tham quan Bảo tàng Mỹ thuật, thứ là thương lượng tiếp về bức tranh. Trước khi vào Bảo tàng Mỹ thuật tôi và anh Vượng kéo nhau ra quán trước nhà anh gần chùa An Lạc đường Phạm ngũ Lão Quận 1, uống càphê. Trong lúc nói chuyện tôi thăm dò ý kiến anh Vượng xem Bảo tàng họ muốn gì.
      - Theo anh thì Bảo tàng họ muốn mua tấm tranh chừng bao nhiêu? Tôi hỏi
      - Chắc họ muốn mua chừng năm ngàn đổ lại thôi! Anh Vượng trả lời
      - Có rẻ không? Tôi hỏi
      - Không rẻ đâu! Tranh của Tô ngọc Vân cũng cỡ Sáu bảy ngàn là cùng. Anh Vượng nói.
      - Anh nói thiệt hay chơi vậy? Tranh Tô ngọc Vân mà bán giá đó, có nhiêu tui chạy tiền mua hết à nghe! Với điều kiện là tranh thiệt chứ tranh dỏm miễn bàn. Nghe tôi nói anh Vượng ngồi im không trả lời.
      - Nếu năm ngàn tôi không bán đâu, tranh vẽ từ năm 1937, bán vậy hơi rẻ! Thôi mình khỏi đi mất công! Tôi nói tiếp.
      - Nói vậy! Mình cứ vào trong đó gặp, nhiều khi họ đổi ý làm sao mình biết được! Anh Vượng nói vớt.
      Anh Vượng dẫn tôi vào một căn phòng ở tầng trệt cũng khá rộng, chung quanh bày biện tranh cũng khá nhiều nhưng lại để dưới đất dựa vào vách tường chứ không treo lên, giữa phòng là một cái bàn dài ngoằng thật to. Tôi và Vượng được mời ngồi cùng một cái ghế gỗ dài khoảng hơn ba thước kê sát tường, trước đã yên vị khoảng bảy tám người gì đó, trong số này  có hai vị là nữ và một anh tôi biết mặt vì đã có lần đi với anh Thiện lại nhà tôi xem tranh. Anh Thiện làm một tua giới thiệu, nghe qua thì trừ tôi và anh Vượng ra còn lại đều là cán bộ của cơ quan của Bảo Tàng này. Sau khi giới thiệu xong chúng tôi ngồi nhìn nhau hút thuốc, một không khí tẻ nhạt, không chút gió máy gì thân mật, ngoài vài câu bông đùa thăm hỏi của anh Vượng với những người tôi nghĩ là anh quen họ nhưng có vẻ cũng không thân lắm. Cuối cùng chuyện gì đến nó cũng phải đến. Anh Thiện đại diện cho những vị chức sắc cùng cơ quan hỏi tôi về giá cả của tấm tranh. Cái giá tôi đưa ra vào thời điểm đó [1996] là 12,000 USD. Sau lời phát biểu tôi cho là khá táo bạo. Cả phòng im phắc! Choáng chăng??? Thời gian như đọng lại, chỉ còn nghe văng vẳng tiếng động cơ xe máy ở những con đường chung quanh xuyên qua cái vách tường dày có đến hơn cả nửa mét tây vọng vào, cũng không thể làm xì bớt được bầu không khí đang căng ra, thật ngột ngạt và nặng nề chi lạ! Có nhiều cặp mắt trong căn phòng này, nhưng mỗi đôi mắt lại có sự biểu lộ một cảm xúc riêng, thể hiện qua nhiều cách. Cái thì nhìn vu vơ, cái thì cúi nhìn xuống đất, cái lơ đãng ngước lên nhìn trần nhà, có cái thì lại nhìn nhau như dò hỏi ..v.v..Ngọ ngoạy trong tình huống cứng đờ, khô khốc… Một lúc sau để phá tan cái bầu không khí vốn đã không mấy chút thân mật ngay tự thuở ban đầu. Đã thế mới tức thời đây lại phải nghe thêm một câu phát biểu không hợp tình hợp cảnh. Lời của anh Thiện nói như mang đến cho căn phòng một trận mưa rào.
      - Thôi! Ngày mai về miền Tây dự triển lãm rồi xem có gì mình mua cũng được!
      Ai về nhà nấy! Tôi vẫn còn “ Cái nắng trên đường đi Lương Phú ở Mỹ Tho ” treo trong nhà cho ấm, cùng cái túi rỗng. Bảo tàng thì chưa có tấm tranh thời kỳ đầu của ông Hoanh, nhưng tiền vẫn còn trong túi. HS Lê Vượng bảo rồi, chỉ năm ngàn đổ lại thôi! Đàng này tham quá đòi đến những ! Mười hai ngàn. Cao quá ai mua nổi! Đô la thiệt chứ đâu phải đô âm phủ đâu mà đòi dữ dzậy? Thế là chả ai mất gì. Chỉ mất tí thời gian cùng một ít nước miếng tán gẫu, cũng chả chết ai đúng không?
      
       Cụt hứng!!! Về nhà lấy chuyện “ Tái ông thất mã ” mà an ủi. Bán được chưa chắc đã lả may. Bán chưa được chắc gì đả là xui? .Chuyện này làm tôi chợt nhớ lại một sự việc đã xảy ra cách nay khoảng sáu bảy năm thời điểm không rõ cỡ năm 1988 hay 1989 gì đó. 

      
      
(Còn tiếp)
  
   (1)   Tiffany Dang đã để lại một nhận xét mới về bài đăng của bạn "HS.NGUYỄN PHI HOANH và ĐƯỜNG ĐI LƯƠNG PHÚ-MỸ THO (...": 

   Cảm ơn chú đã đăng bài tiểu sử này của Ông Ngoại cháu, Má cháu cũng mất được 9 tháng , bây giờ Má & Ông Ngoại đã gặp nhau rồi, còn người mà hay đưa Ông Ngoại đi đây đi đó là Cậu thứ 8 của cháu .
     Ngày xưa lúc Ba cháu còn sống Ba là người đánh máy cho Ông Ngoai xuất bản thành sách cuốn Mỹ Thuật Việt Nam. 
     Được đăng bởi Tiffany Dang vào CHO ĐỜI THÊM VUI.  ngày 11:48 Ngày 15 tháng 08 năm 2014.


16bis- CHUYỆN ÔNG GIÀ MẤT NGỰA.
            

Thứ Năm, 28 tháng 11, 2013

15 - LẠI CHUYỆN CHƠI….

LẠI CHUYỆN CHƠI….


                                         Dù ai nói ngả nói nghiêng.
                                Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân!
      Đó là lời khuyên của anh bạn lấy từ trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam và cũng là người thày đầu tiên khi tôi mới chập chững bước vào con đường thích tranh. Anh bạn đó còn lý giải mở rộng cho tôi dễ hiểu.
      - Cho dù người ta có bảo đó là đồ thật cũng chớ vội mừng. Hay họ nói đó là giả cũng chớ vội nản. Ở đời này, một câu nói chưa phải là chân lý nếu nó có dính dáng đến lợi nhuận. Có thể tiếng khen để lấy lòng. Cũng có thể là tiếng chê của sự thiếu hiểu biết hay mang màu ganh tị! Tất cả mọi sự do ở nơi ta. Phải có bản lãnh, phải tự tin, phải có lập trường vững chắc, phải tỉnh táo và sáng suốt trong cuộc chơi. Muốn có được điều này phải học. Học thật kỹ, học thật cẩn thận, học càng nhiều càng tốt, học đến nơi đến chốn. Phải khiêm tốn và lăn xả, luôn luôn cầu học. Mọi người chung quanh ai cũng có thể làm thày ta!. Đừng bao giờ nghĩ rằng mình hiểu biết nhiều hơn thiên hạ, mà phải nghĩ rằng mình học được những gì ở nơi họ.
      Những lời khuyên chí tình chí cốt của người bạn đã ăn xâu vào tâm trí tôi suốt từ đó đến nay. Hơn hai mươi lăm năm tôi lững thững đi trên con đường say mê nghệ thuật này. Hai mươi lăm năm. Một phần tư thế kỷ. Chớp mắt mới như hôm nào. Không phải là giấc mơ! Sự thật cả! Đã là sự thật thì đương nhiên nó tồn tại trên cõi đời này. Mà đã là cõi người ta thì làm sao tránh được chuyện hỷ, nộ, ái, ố. Dù anh ăn ở có khéo đến thế nào đi chăng nữa, anh cũng vẫn nằm trong vòng kềm tỏa của nó. Không chạy đi đâu cho thoát!
    


       Kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 đổ về sau. Trong buổi giao thời, mọi con dân sống trong Hòn ngọc Viễn Đông đều phải rũ bỏ cái hào nhoáng tự phong để tất bật lo toan đối phó với xã hội đang thay da đổi thịt. Một giai đoạn mà có tên trong hộ khẩu cùng cầm được cái sổ gạo là đệ nhất đẳng thần tiên. Không còn gì quí hơn nữa. Cái thời của Hợp tác Xã cân đo đong đếm. Cái thời của Mậu dịch cầm cân nẩy mực. Kinh doanh mang tính tư hữu, cá thể bị cấm ngặt. Nhất cử nhất động phải được Chính quyền sở tại cho phép mới chính thống. Khác đi... là lậu, là phạm pháp. Be bé thì tịch thu cảnh cáo. To to thì xử lý bằng pháp luật… Nói vậy thôi! Cấm kẻ ngay chứ nào cấm được bọn du thủ du thực với lại bọn đói làm liều. Hợp Tác Xã! Giá  rẻ thiệt, nhưng muốn mua phải có sổ. Chợ đen! Giá đắt!?.... khỏi cần sổ, chỉ cần có tiền. Chẳng nhẽ đang đi giữa đường nổ lốp, vác xe về rồi chạy ra HTX mua? Có còn hay hết hàng? Thay quách cho xong! Ốm sắp chết cầm toa vắt chân chạy cùng khắp Cơ quan Y tế lớn bé lùng bùng cả lỗ tai  không ra! Ra chợ trời mấy cũng có! Chọn cái nào? Những nhu cầu trong cuộc sống hàng ngày đôi khi phải dựa vào đám lục bình này là vậy. Chính thế mà bọn khu trắng, khu đen vẫn có đất nương thân.    
      Trận đói 1945 do khẩu truyền hay sách báo xưa nay nói lại, con dân đa phần cũng chỉ là mơ mơ hồ hồ và chuyện này chỉ có những người từng sống qua hay cả nghĩ mới hiểu được giá trị của củ khoai. Nay đời sống tõm ngay vào thời “ bobo, củi thước ”, mọi người được tận hưởng cụ thể một cách sâu đậm của thực tại! Cái sổ gạo có ấn định tiêu chuẩn khối lượng. Sức ngốn thì luôn vượt chuẩn dẫn đến tình trạng thường xuyên thiếu hụt. Hoảng… là cái chắc! Phải chuẩn bị! Tích cốc phòng cơ là thượng sách! Thế là dòm trước, ngó sau so đo, cân nhắc mọi thứ trong nhà. Cái nào có thể qui ra tiền để đong gạo! A lê hấp! Lên đường! Có vài ký gạo để trong nhà vưỡn an tâm hơn. Không có gì ngăn cản chuyện đem của nả sắm sửa từ trước phát mãi dần để đổi lấy tiện ích hòng trấn áp cái bao tử cho nó không sách động...biểu tình, dẫu rằng vật thực đem trấn yểm đó, sâu mọt nổi lềnh bềnh hay là những mẩu vật có đậy điệm cẩn thận, đứng cách xa vài chục thước đã thấy mùi, ruồi nhặng bay loạn xị. Chẳng thấy ai dám xem thường. Chả còn mấy ai lấy làm bận tâm về câu “ Miếng ăn là miếng tồi tàn! ”. Có còn hơn không! Mọi người vẫn tỏ ra hồ hởi, vui vẻ thụ hưởng không lời ta thán. Chỉ có điều. Nếu không còn gì để bán nữa thì con đường dẫn ra chợ trời, buôn lậu không mấy gì xa!     
      
       Ở vào cái thuở. Người người cùng bán, nhà nhà cùng tháo. Chả có gì được cho là quí hiếm phải giữ lại trong cái thời buổi “ Dĩ thực vi tiên ”. Bao tử là trên hết. Cứ ngỡ rằng chuyện bán ra nhiều mua vào thì ít. Hàng xa xỉ, loại chơi cho vui sẽ chất tầy núi chẳng có ma nào rớ. Từ đó suy ra. Chả ai lép bụng mà đi rước của rửng mỡ về nhà mà ngắm! Rỗi hơi đâu!? Nghĩ thì thế! Có lẽ mọi người cũng nghĩ thế! Ấy vậy! Khi quay lại chả còn lấy một tí gọi là... Như vậy thiên hạ đâu có đói! Vẫn còn thích chơi! Ngon ta!

                           Bản văn có Chu Phê của vua Gia Long Thập Thất Niên. Năm 1819. 


                             Bản văn có Chu Phê của Vua Thiệu Trị Ngũ Niên. Năm 1845.

     Một trang rút trong tập thơ Nôm. Thủ bút của Thái Tử Thiếu Bảo. Đông Các Đại Học Sĩ. Nguyễn hữu Bài ( 1863 – 1935 ). Một trong hai nhân vật nằm trong câu ca dân gian.  “ Đày vua không Khả. Đào mả không Bài ”. Có một chuyện quan trọng cần nói với những ai khoái sưu tầm sách cổ. Vào thời Pháp thuộc quí vị học giả, trí thức xử dụng chữ Quốc ngữ. Tôi thấy một số vị khi viết đến chữ “ t ” đều bỏ cái gạch ngang trên đầu. Còn cụ Trương vĩnh Ký thì khi cụ viết đến chữ có mẫu tự chữ “ t ”, cụ không gạch từng chữ mà gạch một loạt.

Gạt tàn thuốc lá do Tr/Tướng Tư lệnh phó Không quân Đài Loan Lôi viêm Quân tặng cho Thiếu tướng Nguyễn cao Kỳ ( VNCH ).

                                             Bảo quốc huân chương Đệ tứ đẳng ( VNCH )


    Hơn 40 vị Đại sứ và Lãnh sự đồng ký tên lưu niệm khi ông Lê quan Giảng hết nhiệm kỳ năm 1973. ( VNCH ).
  Những vật quí như trên, trước 1975, những người như thằng tôi đừng hòng giáp mặt. Chuyện sở hữu chỉ là hoang tưởng! 

     Buổi giao thời nào cũng vậy. Niềm vui người này lại là nỗi đau buồn của kẻ khác. " Buồn vui phải chăng ngược xuôi? "(1). Chính vì sự trái khoáy này mà sinh ra biết bao nhiêu chuyện thừa thiếu, chuệch choạc. Mọi thứ như bèo dạt mây trôi xứ xa xôi…không còn gì quí hơn miếng bánh. Thế là của nả, vàng thau, cám lợn, cứ thi nhau tung hê đầy đường, chả thiếu thứ gì. Trong lúc thiên hạ đại sự, bất ngờ lại lòi ra cái tụi bụng xẹp lép như cái lốp cán phải bẫy "đinh tặc" mà lại ngậm tăm làm bảnh. Cà cuống chết đến đít vẫn cay thuộc giòng ham chơi có chút hiểu biết tiếc của trời lúc này mới lộ diện, mới chụp lấy cơ hội húc bừa, tha hồ mà lựa chọn.  

      Có những cái chơi không cần đến phải ấm cật, đó là loại mà dám nhịn để chơi miễn không chết đói là được. Có nhiêu chơi nhiêu! Thứ này gọi là chơi theo sở thích, chơi theo niềm đam mê cá nhân. Tích cóp được chút đỉnh dấu vợ, né con ngày ngày đi lùng sục hễ thấy món nào trúng ý vừa lòng quơ liền. Đúng tầm là chớp. Có những món hồi lúc trước 1975, dâng mấy tháng lương chưa chắc rờ nổi! ( Cỡ như tui làm gì có cửa. Chả ai thèm vén cho ngó chút nữa chứ đừng nói tới chuyện mua ). Giờ chỉ bằng một cây thuốc Hoa Mai. Rẻ quá xá! Nhịn hút! Mua…! Thiệt tình thú chơi nào cũng có niềm đam mê riêng của nó. Cái nghiện này cũng tùy vào đối tượng. Có những người vợ con cũng chẳng! Thú vui cá nhân là trên hết! Cái chơi nghịch cảnh này rất dễ bị người đời cho là hâm, còn vợ con thì cay đắng cho thú chơi này của vị gia trưởng này. Cũng từ cái ngẳng đời của đám cuồng thị này nó mới có những điều để mà nói. Nói ra cũng buồn, lại súc phạm đến người đã khuất. 
      Tôi có biết một vị đáng kính nay đã khuất núi, mức độ ông mê sách tôi thấy trong đời chỉ có một không hai. Ổng xa rời vợ con, sống một mình chỉ vì cái tội dám bán sách của ông trong thời gian ông lên rừng rèn luyện làm người. Ông  không chấp nhận lý do bà nêu ra là lo cho con có miếng ăn, cái mặc khi ông vắng nhà. Chẳng nhẽ nhìn đống sách, để con chết đói? Bà có hỏi ông như thế. Ông đã tái mặt, không đồng quan điểm ấy! Một kết thúc thật đáng buồn. Sách là nỗi ám ảnh, là nỗi kinh hoàng đối với vợ con ông. Khi ông vừa xuôi tay nhắm mắt chưa được giáp tuần, cả mấy tấn sách mà ông tha về khi còn đương thời, nó tăng, tăng dần theo những bước chân ông lang thang khắp nẻo sách cũ. Không vơi đi tị nào, chỉ thấy nó mỗi ngày một ngồn ngộn ra theo tuổi đời nhàn hạ của ông. Chất hết góc này tràn qua sàn nọ dần dần vươn lên tận trần nhà. Hai căn phòng, mươi lăm mét vuông không còn chỗ lèn chân. Ông tâm sự rằng có những quyển cần đọc đi mua cuốn khác còn nhanh hơn là tìm nó. Cũng may là nhà đúc betong chứ không thì... Ông ky cóp, nhặt nhạnh từng cuốn nâng niu hơn cả vợ lẫn con chuyện đó đã vào quá khứ. Nay, tất cả đã được thanh lý cho hàng sách cũ với cái giá năm ngàn một ký, bởi những người bị ông ghét bỏ, bán cho khuất mắt. Đâu có ai muốn giữ cái thứ xúi quẩy đã vì nó mà họ bị người thân bỏ bê ghét bỏ bao năm tháng trong nhà. Một niềm đam mê thật kinh khủng!
        Ngược lại với niềm đam mê chết bỏ không rời của cá nhân này là một chuyện ngược lại hoàn toàn, khá là ngộ nghĩnh đã xảy ra ngay đầu Thế kỷ XXI mới toanh mới được vài năm với trường Đại Học Kinh Tế của Thành Phố Hồ chí Minh chúng ta. Chẳng lẽ cái văn hóa đọc đã hết thời! Hay là sách in có chiều hướng bị khai tử vào khoảng thời gian sắp tới do máy tính bảng được sản xuất tràn ngập tại nước nhà. Hay là do cay cú về một chuyện gì gì đó liên quan đến sách cũ như vợ con vị khả kính vừa nói trên kia, nên các vị trùm trọng trách của Trường Đại Học Kinh Tế đã thẳng tay sổ toẹt. Không dám nói là nhiều hay ít nhưng chí cốt cũng phải vài chục ngàn cuốn sách cũ từ thời thủa nảo nào. Trong đó có những cuốn tuổi đời cỡ vài trăm năm, tích cóp dần dần bằng công sức của bao thế hệ đi trước, được giữ gìn, bảo vệ xuyên suốt qua mấy trào chế độ đang nằm yên vị trên các kệ sách của Thư viện do nhà Trường quản lý. Đến giờ phút thong manh này không ai rõ là bằng văn bản hay một cú điện thoại, các vị đã chính thức mở toác cánh cửa Thư Viện Đại Học Luật Khoa cũ nay là Đại Học Kinh Tế mới, cho mọi người vào tha hồ chọn lựa với giá tương đương một ổ bánh mì không thịt, sa cạ chỉ có 1000 đồng một cuốn. Ngàn năm một thuở cho những anh em đi lò ve chai được một phen tổ đãi trúng quả khá đậm. 
        Chuyện này nếu không nói ra thì cũng thiếu sót lắm. Số là các đặc phái viên chạy lò này đa phần là hành quân tác chiến độc lập. Mạnh ai nấy sống, chuyện ai nấy làm. Rất ít khi họ chịu tập trận chung. Khi vào đến bên trong Thư Viện, một sự choáng ngợp đối với những chuyên viên này. Chưa bao giờ mà họ được chứng kiến một nguồn sách ngất trời như núi Tản. Cơ man nào mà kể, không biết chọn món nào vì cái nào cũng đáng giá cả. Một kho tàng đầy của nả cao ngất tận trần nhà. Chẳng nhẽ mỗi người lại vác một cái thang. Thế là họ hè nhau kéo đổ các kệ sách xuống để lấy. Chẳng khác chi lúc những người hè nhau kéo sập tượng Hai Bà ở ngoài Công trường Mê Linh nơi rìa sông Saigòn yên ả!  Người nào cũng chỉ có hai tay vơ không xuể. Nghe nói mấy ngày đầu mọi người còn đố kỵ nhau, nhưng sau đó tất cả đã hợp đồng binh chủng lại thành một tụ cùng nhau khai thác, cùng nhau tìm bới và chia sẻ. Một cây làm chẳng nên non…nhiều thằng xúm lại mới mau làm giàu. Nghe nói đâu mỗi người bỏ túi khoảng vài chục triệu đồng đền bù cho công sức hơn tuần lễ bới móc trên đống sách tàn dư của mấy chế độ cũ để lại. Phúc tổ cho nhà anh. Cũng may mà có mấy thằng lái sách cũ nhào dzô hốt được, chứ nếu nó gọi xe đến chất đầy rồi đâm thẳng vào lò nấu giấy thì ăn mày cả đám. Tóm lại nhờ chuyện ấm ớ xảy như vậy mà lại đâm ra hay! Có thế nó mới phát tán đến tay bạn đọc. Tỷ như nó không đổ vào lò nấu, không bán ra mà úm kỹ để khơi không ai quan tâm riết rồi mối mọt nó ăn tuốt chả còn đọc được chữ nào, đem đổ thùng cũng rứa. Cám ơn trời đất đi thôi!
      - Ê! Thằng kia mày chửi ai vô học hả!? 
     

         Thế đấy! Cuộc sống muôn mặt, mỗi người mỗi niềm, chăn ai nấy đắp! Vợ chồng xong việc gối ai nấy nằm. Chẳng lẽ sở thích của anh là chân lý? Vớ vẩn!
      Cái thích nó biểu diễn cho người chung quanh hiểu được niềm đam mê của cá nhân đó, ngoài ra chả là cái đếch gì. Cùng hội cùng thuyền còn có chỗ. Khác thuyền, khác bè chuyện ai nấy biết!
      Sự thích tranh của tôi nó cũng nằm trong cái vòng luẩn quẩn này! Tôi chẳng có tiền nhiều, còn thiếu nữa là đàng khác. Nhưng nhờ có may mắn gặp được nhiều quới nhơn chỉ bảo nên cũng ê, a được tí chút. Có cơ hội, thấy đường được vừa túi tiền mua chơi luôn kèm theo hậu ý. Biết đâu sau này có ai thích hơn mình, họ có tiền nhượng lại kiếm chút đinh nuôi vợ con, ai nỡ lòng nào chê cho được. Làm sao lại từ chối hà? Đơn giản chỉ có vậy.
      Trái đất vẫn thản nhiên quay vòng vòng cho đủ 24 tiếng của nó. Nhưng bàn dân thiên hạ lúc này lại có chút đổi mới trong nếp sống. Đó là có một số người sính hai chữ Việt Kiều. Một cái mốt thời thượng. Một niềm vinh dự lớn lao cho gia đình, dòng họ. Một niềm hãnh diện với xóm làng. Tôi nghĩ chắc nó cũng giống như niềm tự hào của những gia đình thuở xưa có con đỗ quan Nghè vinh qui về làng. Con gà tức nhau tiếng gáy, thế là thi nhau chuồn. Mỗi người khi ra đi đều ấp ủ trong lòng những ước mơ, những hoài bão, hẹn ngày trở về sáng lạn. [ Xin thượng đế ban phúc lành cho những ai ra đi “ Ngày trở về” đừng giống hình ảnh trong một ca khúc của Phạm Duy!].
      Ngày qui cố hương thì chưa biết ra sao. Nhưng khi cất bước ra đi thì biết chắc là… Một cái gì đó thê lương, ảm đạm đè năng trong tâm hồn kẻ đi người ở. Một chuyến tiễn đưa không kèn trống, lui chui, lủi nhủi...như chuột cống ban đêm. Bị tó là vô lồng nằm chờ phán xét. Thật nhiêu khê! Cay đắng...Đó chưa kể đến chuyện… Nhiều nỗi kinh hoàng lắm lắm! Vì đây là sự đào thoát nên khi xuất hành tư trang cần sự gọn nhẹ. Mọi sự chuẩn bị phải thật kín đáo, phải che đậy thật cẩn thận để mọi người chung quanh không thấy có một biểu hiện gì đáng nghi ngờ. Phải che làm sao mà khi mình đi cả tháng mới xì hèm... Như vậy thì của nả làm sao mang theo! Phải thật gọn nhẹ như đặc công đi đánh đồn. Thế là đành vất lại cả đống. Anh nào thoát. Của nả còn nhưng ngoài tầm tay. Anh nào không may vào bụng cá. Cả núi của không làm di chúc cho ai được! Kẻ ra đi bặt tăm! Người ở lại!!!
       - Chả hiểu cái của nợ này lúc trước còn ở nhà ổng mua làm chi treo đầy tường. Chỉ tổ để cho bụi, mạng nhện bám bẩn cả nhà. Ngứa cả mắt! Chán thật! Ai mua bán mẹ nó đi lấy tiền tiêu cho sướng.
       " Chờ mãi, hôm nay mới gặp mày! May quá! Thời buổi người ta vất, xé đi không hết, thế mà mày lại đi mua? Trận mưa hôm qua tao đang tính đem đi đậy chuồng gà vì sợ nó toi.... Nay mày muốn mua? Có gì cản trở để tao không bán nào?! Nè! mua đi! Đưa tiền đây! Đem về treo lên tha hồ thưởng thức! Sướng nhé!".
      Đấy! Tôi đã mua tranh vào những lúc như vậy đó!
     “ Chơi đồ cổ là chơi trên sự ngu dốt của thiên hạ!”. Tôi không biết ai là chủ nhân của câu nói này. Khi nghe qua câu nói đó chưa rõ sự thể ra sao nhưng chắc chắn là không “ Đắc nhân tâm”  dẫu cho là chút ít. Phải chi thay ba chữ “ Sự ngu dốt ” bằng ba chữ “ Thiếu hiểu biết ” thì vui vẻ biết mấy! Lại ngứa miệng nữa rồi!
     
       Trở lại câu tôi có nói sơ ở phần trên là “ Càng ít người biết càng dễ mua. Càng nhiều người biết càng khó mua! ”. Câu này nó hàm ý khuyên ta tự kềm chế, không nên ba hoa chích chòe, thủ kỹ trong bụng làm bí kíp mà sài. Cái gì mà mọi người đều hay, đều biết. Ló ra người ta đâu có để yên. Bạn cứ thử nghĩ xem, khi bạn biết món đó quí hiếm, có giá trị cao lại vừa túi tiền rủng rỉnh. Bạn mua ngay hay từ chối? Ngược lại. Cũng là món đó nhưng bạn đánh giá nó thấp, vô giá trị. Bạn từ chối hay mua? Thế đấy! Chuyện này không phải là sự hiểm độc, mà được xem như chuyện bảo mật tránh bớt được sự cạnh tranh phòng khi người khôn của hiếm. Vì sau ngày Giải Phóng 30/4/1975 nguồn cung thừa mứa, không chuyện này cũng thứ nọ nhan nhản, tìm thế nào cũng gặp. Thích gì mua nấy! Một thời khắc có những điều khó thể giải thích, không thể hiểu được ngọn ngành. Riêng tôi lúc này Mán rừng về phố cái gì cũng mới, cũng lạ, cũng hay! Thấy gì cũng thích, thích đủ thứ. Không gặp thì thôi. Hễ gặp vừa túi là mua, mua tất tất tần tật, thượng vàng, hạ cám, say mê mà mua... Câu nói “ sống lâu ra lão làng ” không sai. Chẳng tỏ Ất Giáp, trường lớp là gì! Chỉ được cái húc bừa! Cặp mắt sau bao ngày nhắm mở, đạp gai, sụp ổ gà vấp ngã sưng cả mặt. Khi " ngộ!". Mới hiểu hết ý nghĩa của câu thế nào là quí hồ tinh hơn quí hồ đa, thì  trong nhà đã chất đầy một mớ vàng thau lẫn lộn!!! Chả sao! Chưng đó mà ngắm! Ngắm cho kỹ để nhớ lại những lúc mình de chân chèo ra mà xúc. Cứ tưởng xúc được vàng ròng của thiên hạ! Âu đó cũng là kỷ niệm. Nói cho đỡ ngượng, chứ lúc đó biết cái nước mẹ gì mà khứu!!! Tự chung cũng nhờ hốt sảng hốt tiều như vậy, nên giờ này gạn đục khơi trong cũng có được một chút đỉnh khoe bạn bè. Khi nào buồn buồn không có gì làm, lấy ra ngồi rung rung cái đùi, ngắm chơi cũng đơ đỡ…nghiện!!!
....Cộc!....Khè!

 (Con nữa).

(1) Trích lời trong ca khúc " Huyền ca "của Cauminhngoc. Tập 06 

16 - NGUYỄN PHI HOANH  VẼ " ĐƯỜNG ĐI LƯƠNG PHÚ - MỸ THO " NĂM 1937 và CHUYỆN TÁI ÔNG THẤT MÃ.