2 - “ TRÂU CỘT GHÉT TRÂU ĂN ”
Trong
làng môi giới, cơ hội. Người thuộc hàng sư phụ phải kể đến ông “ Tú xuất ”. Một
trí thức trước 1975.
( Đích thị không phải cụ Tú Xuất trong truyện cười dân
gian đâu. Để tránh hiểu nhầm giữa chuyện xưa và chuyện đời nay nên chữ “xuất” sẽ không viết hoa để phân biệt ).
Tú là cái
tên thường gọi được chính quyền xác nhận. Được đánh máy mổ vào tờ giấy có tên khai
sinh. Chữ “ xuất ” là cái danh hiệu đính theo cái tên tục, chỉ danh sự kiện đặc
biệt đã xảy ra với ông. Khi ông giao tiếp với đời. Không hiểu còn có lý do nào
khác hay chỉ vì một câu trong ca khúc của nhạc sĩ Trịnh công Sơn nói vu vơ “
Chúa cũng bỏ loài người…” đã tác động mạnh vào tâm thức một người phàm mang tên
Thánh như ông, khiến ông nản lòng rời khỏi Chủng viện để bước chân vào cõi
người ta.
( Có lẽ chữ “ xuất ” rơi vào tình huống này ).
Chính căn
bản của thời gian tu học nơi đất Thánh đã giúp ông phát huy được tính năng nhạy
bén của mình nơi kiếp sống trần tục. Thông thạo hai ba ngoại ngữ. Hiểu biết
rộng trong kho tàng sách cũ quí hiếm có giá trị từ khi còn mài đũng quần trong Tu
Viện thông qua tàng thư của Nhà Dòng . Với số vốn tự có đó cộng thêm sự lăn lộn
vào chốn văn hóa đô hội tuôn trào sau mùa Giải Phóng Miền Nam . Ông lăn xả không chừa một lãnh
vực nào trong mảng văn học và nghệ thuật. Với cái mã trí thức làm lợi thế, cũng
là bàn đạp thuận lợi giúp cho sự giao tiếp nhân rộng ra giữa ông với giới học
thuật, nghiên cứu uyên bác khắp nơi trong cả nước. Đã thế ông lại thường xuyên va
chạm với những hảo thủ sừng nanh của làng sách cũ! Chuyện này càng làm tăng thêm thành công
lực, hỏa hầu kinh nghiệm nơi ông. Với bản lãnh tuyệt đích như thế! Ông dư thừa
trí trá để hành tẩu trên chốn giang hồ được cho là hiểm ác, đầy cạm bẫy! Không
hề chùn tay kiêng dè!
( Chỉ có chết với ông! Chứ ông chả chết với ai cả!).
Ông
rất tự hào về nghề nghiệp cũng như bản lãnh của mình, đã từng có dạo ông cho in
hẳn trên danh thiếp của mình là nhà sưu tập hộ nữa đấy! Với ông! Hễ anh có tiền
thì cái gì tôi cũng có thể đáp ứng và phục vụ ngài tận tình. Cũng có tin đồn
không mấy gì tốt đẹp… lan truyền…
- " Úi dào! Cái bọn “ Trâu cột ghét trâu ăn ” ấy
mà!". Một giọng thật nhỏ nhẻ truyền thống ngàn năm văn vật của nhà trí thức thật
dễ nghe cộng thêm cái nhún vai dáng vẻ bất kể cái sự đời và không bao giờ thiếu
động tác hai tay bợ vào sợi nịt quần kéo nhẹ lên làm dáng …một sự phản kháng
thật nhẹ nhàng của người lịch lãm trí thức rất Hà Nội …Muốn hiểu sao hiểu...
Trong
làng sách báo cũ, tranh cũ từ Nam
ra Bắc quẹo dzô miền Trung, không ai lại có thể dám nói là không biết đến ông.
Chỉ có mấy chú hai lúa dưới mới lên, bạch đinh, lính trơn, Đơ dèm cùi bắp mới
nhập ngũ hoặc là lũ không màng đến chữ nghĩa là gì mới dám hở môi mà nói càn “
Không biết ” về núi Thái Sơn lù lù giữa chợ. Như thế là phạm thánh nghiêm trọng
đấy.
Vào
những khi vi hành giao tiếp. Mọi người khó có ai nắm rõ được một thân thể xương
nhiều thịt ít của ông ra sao, vì nó luôn ẩn trong bộ cánh thật bảnh bao, chải
chuốt, áo bắn vào thùng nịt niếc cẩn thận, tay cài “ Măng Sết” hẳn hòi. Rất ít
khi thấy ông mặc áo sơ mi cộc có lẽ do tránh việc phô bày sự khẳng khiu của đôi
tay cán vá. Với cái đầu phủ tóc hai “ lai ” phù hợp với độ tuổi được vuốt cẩn
trọng bằng “Bi dăng tin” sát sạt hai bên mang tai, hơi bồng bồng phía vầng
trán, rẽ ngôi lệch hai, tám chăm chút nom thật thời trang của thập niên 50. Đã
thế trang bị cho đôi mắt là cặp kính lão gọng đồi mồi xịn sang trọng, làm cho
khuôn mặt xương xương thêm phần góc cạnh, càng lộ rõ vẻ trí thức đĩnh ngộ, hoắm
hẳn cả ra. Cuối cùng chạm đất là đôi giày da khi nâu, khi đen bóng loáng như váy vải Mỹ A của mấy chị Chà Dzà hay Căm pua
Chia sồn sồn gì đó thường mặc mỗi khi đi phố bán vải. Mỗi khi tếch khỏi phủ
đường, cậu chĩnh chọe ngự trên chiếc xe xích lô đạp túc tắc đầy khách khí phong
lưu công tử thuở nào! Làm tăng thêm vẻ đạo mạo, trí tuệ nghiêm cẩn của chàng
công tử miệt Phú Nhuận hồi nay. Lẩy một câu Kiều của cụ Nguyễn Du là ra ngay
thôi.
“ Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.”
( Mấy trăm
năm trước mà cụ Nguyễn Du đã biết được con cháu mình sau này nó ăn mặc ra sao!
Bái phục!!! Bái phục!!!).
Những lần
gặp nhau giữa tôi và ông Tú xuất vào giai đoạn sơ giao. Quả tình mà nói! Tôi đã
dành cho ông nhiều sự hâm mộ, lẫn kính nể. Với phong cách, dáng vẻ lịch lãm,
điệu bộ nghiêm túc toát ra như thế có lẽ không riêng gì tôi mà ai mới tiếp xúc đều
có cảm nghĩ như vậy!
Lê Thy. Đình và Tư tưởng Việt Nho. Sơn mài trên gỗ mít. 60cm x 90cm. 1950.
Vũ Hối. Phong cảnh. Sơn dầu trên bố. Kích
thước: 35cm x 45cm.(đã bán).
Thế rồi
vào một buổi sớm, lúc tôi đang cộng tác với Fahasha bán sách cũ cùng hai người
bạn ở hiệu sách Lê Phan đường Phạm ngũ Lão Quận I. Ông Tú xuất đến gặp đề nghị
mua lại bốn tấm tranh tôi đang có. Một tấm sơn mài của họa sĩ Lê Thy thực hiện
trên gỗ mít cỡ 60cm x 90cm. Hai tấm sơn
dầu trên bố. Hoa phượng đỏ cỡ 65cm x 95cm. Buổi sáng sớm, cỡ 40cm x 65cm đều
của họa sĩ Nguyễn trí Minh. Một tấm nữa của họa sĩ Vũ Hối cũng sơn dầu trên bố
vẽ phong cảnh cỡ 35cm x 45cm. Cái giá ông đưa ra khá hấp dẫn. Một lượng vàng y.
Thời điểm này một cây lớn lắm các cụ ạ! Nếu cầm ra ngoại thành mua đất lúc đó
để đến…bây giờ thì phải biết. Nhưng chả ai dám làm chuyện này? Bản thân tôi lúc
ấy cũng rét. Không một ai có đủ dũng khí mà làm chuyện như thế. Ai có can đảm cắt hộ khẩu để ra ngoại thành?
Chỉ nghe mình được đề nghị thôi đã thấy xanh sao vàng vọt rồi. Bất cứ giá nào
cũng phải bám trụ ở thành phố. Ai nói gì cũng mặc, cứ như điếc bẩm sinh. Nhiều
người đã nhiệt tình dặn dò nhau như thế! Được nhập khẩu thành phố Saigòn lúc
này cứ như thể lên thiên đường. Hơn cả trúng số nữa cơ! Quả là một thời điểm
đầy ấn tượng! Ấy vậy đó, càng sợ nó lại càng vấy vào mình, thế mới đau. Chính
thị ngay tôi lại bị du vào chốn này. Ngây thơ! Hay tại mắt to hơn người?.
( Thật đấy! Nhiều người thường bảo là tôi có cặp mắt
to! Đành
đoạn xâm mình, tỏ dáng hiên ngang giơ cái đầu “ Bò ” đi cắt khẩu cái rột mất
không quá hai tiếng đồng hồ đi về. Thót một phát về tận Đức Huệ, Long An, để
huấn nhục mất hơn hai năm, chịu thương chịu khó cày xâu, cuốc bẫm học thành
thạo được cái nghề “ Hết gạo chạy rông. Nhất nông nhì Sĩ ”. Tốt nghiệp thuộc
loại khá! Nhưng sau rốt chả tìm đươc mảnh đất nào chịu để mình thử nghiệm tài
năng, để được phát huy cái truyền thống “ Phi nông bất ổn” như cụ Lê quí Đôn đã
dạy, mà rồi sau đó lận cái đuôi “Chuột” chui về thành lẩn khuất phải mất đến
ba, bốn năm trời mới lại viết được cái tên mình vào sổ để hòng chứng minh với
mọi người chung quanh rằng mình là con dân có tên trong hộ khẩu của một thành
phố lớn nhất nhì của đất nước.....
Ê! Ê!!! Trật đường rồi! Quay…).
Buổi tối
hôm ấy, ghi nhớ nhập tâm lời đề nghị của ông Tú xuất, tôi về đến nhà chả kịp
thay quần áo triển khai ngay với vợ về lời đề nghị ngọt ngào không chút gì mà
có thể bảo là khiếm nhã cho được của ông Tú xuất… Chả cần phải đắn đo suy nghĩ
lấy một tí để được gọi là khôn và khéo. Vợ tôi phang liền.
- Bán đi
anh! Có một cây rồi ráng chạy mượn thêm mấy chỉ nữa phụ vào mua cái xe Honda
78. chạy cho đỡ cực, chứ mỗi lần về
Ngoại đạp cái xe đạp mệt quá! (Chỉ dám nghĩ đến chiếc 78,chứ còn Cup 81 trở lên
thì chỉ là niềm mơ về tương lai!).
Ôi!!!
Những lời nói của mụ vợ trẻ nghe thật chí phải, sao dễ nghe đến như vậy kia
chứ! Thật là “ Đồng thanh, đồng thủ ” và thực dụng làm sao ấy. Chính ngay trái
tim đỏ trong lồng ngực tối om của tôi nó cũng mách bảo. “ Hãy mua đi cho tớ đỡ
cực, mỗi lần bạn đạp xa cả chục cây số, tôi làm việc mệt lắm! đây là niềm mơ
rất chính đáng mà!” Mặc dầu lúc này tôi chưa có chỗ để an cư, cũng do ỷ lại đã
có chốn nương thân là ở chung với mẹ và gia đình người anh ruột. Ăn thì nhiều
chứ ở bao nhiêu! Mí lỵ mới có một đứa lo gì. Khi nào có nhiều nhiều hẵng tính!
Với những nghĩ suy cùng lời khuyên chí tình, chí cốt ấy của vợ, sao lại không
nghe nào? Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn. Phải nghe thôi! Nhất vợ,
Nhì trời!” mà.
( Thời buổi
thật là trái khoáy! Mảnh đất con cắm dùi chưa có. Một cây vàng mua khối đất chả
màng. Lại thèm mua chiếc Honda 78 còn thiếu ba, năm chỉ! Thật nực cười ).
Ngày hôm
sau, đúng như lời hẹn ông Tú xuất đến. Gặp nhau tại hiệu sách. Nhưng thay vì
nói với ông Tú xuất một cây, tôi ướm lời đòi cây hai, theo ý lòng tham của mình
là vòi thêm được chút nào hay chút nấy. Không chịu thì một cây cũng bán có mất
mát chó gì mà lo? Không ngờ ông Tú xuất lại tỏ ra rất hào phóng chả quan tâm gì
đến điều tôi đòi hỏi mà chỉ nói mượn mấy tấm hình chụp những tấm tranh ông muốn
mua đem về cho người bạn xem, vì làm ăn chung nên phải tham khảo ý kiến người
ta một chút, chứ không sau này được lãi kép, lãi đụp thì chả sao, không có lãi
lại đổ thừa, kẹt cho ông lắm lắm. Người nhớn với nhau cả, đề phòng những rắc
rối có thể xảy ra mai hậu, đâm ra khó ăn khó nói. Quá hợp lý! Quá nghiêm túc đi
chứ! Rất ư là bài bản!
Vì không
có sẵn, tôi phải nhờ người em bà con đến chụp dùm mấy bức tranh. Đã thế lại còn
bắt chụp hình màu nữa cơ chứ. Thời buổi khó khăn. Một tấm ảnh màu bằng hơn chục
ký gạo, rồi lại còn đem đi rửa nữa, nên phải mất hết mấy hôm. Sau đó mới có hình để đưa cho ông Tú xuất. Kể từ
lúc đưa mấy tấm hình, trong lòng tôi mừng khấp khởi, sắp có Honda đi rồi, không
còn phải còng lưng, rạc chân mà đạp nữa.
( Lại sắp. Ăn cháo đá bát. Qua cầu rút ván đây!).
Thật
sung sướng cái cuộc đời…
( Có ai thấu hiểu cho tâm trạng kẻ khó chăng?).
“ Đồng
sàng, dị mộng” cùng chỗ bán mà có hai niềm mơ! Hai người bạn cùng bán chung ở quầy sách chỉ mong sao có doanh
thu cao cao để cuối tuần được chia lương kha khá. Còn tôi chỉ thấy thời gian
sao chậm chạp thế, cứ như hàng thế kỷ không bằng. Có phải chăng sự chờ đợi bao
giờ cũng lê thê, lượt thượt như vậy không?
Rồi! Đã
bốn ngày qua chứ ít sao? Nhác thấy chiếc xích lô quen dáng đỗ xịch trước cửa
hàng, động tác nâng đứng cái bánh sau lên, chúc cái thùng phía trước xuống, để
khi khách bước ra đỡ nhọc, khỏi vấp phải càng xe.
( Lúc này mà té, có thánh cũng không đỡ được!).
Một cung
cách của những bác tài biết cách chiều khách đứng tuổi. Có lẽ ngồi trên xe lâu
sợ quần áo bị xốc xếch hay là thói quen chả biết. Khi vừa bước rời khỏi xe,
miệng vừa nói như dặn dò bác xích lô điều gì đó, hai tay nắm vào nịt thắt lưng
kéo nhẹ cái quần lên, xốc lại cái áo,
vuốt vuốt cái ni quần cho nghiêm chỉnh, nâng nhẹ cái mục kỉnh cho ngay hàng
thẳng lối rồi khoan thai bước hướng về cửa hàng. Một sự nôn nao không biết tự ở
đâu kéo đến trong lòng khi thấy người lẫn bóng gầy gầy của ông Tú xuất tự đàng
xa cho đến lúc đổ ập vào trong quầy. Hồi hộp khó tả!!! Rồi cũng tới thôi!...
Điều mang
đến không phải là sự hồ hởi, lâng lâng như mấy ngày qua chờ đợi mà cả một sự
hụt hẫng, thất vọng não nề đánh huỵch!!!.
( Rất may không bị trúng gió.)
Sao dzậy
?!?! Ông Tú xuất nói là bạn của ổng không muốn mua hết, chỉ muốn mua một tấm “
Hoa phượng đỏ” của Nguyễn trí Minh mà thôi! Cả một trời vần vũ xám ngoẹt đầy
thất vọng. Uổng phí mấy ngày đợi mong. Tàn giấc mơ hoa! Than ôi! Đứt phim giấc
mộng Cup78.
- Thế tại
sao bữa trước anh đòi mua cả bốn tấm nay còn một? Tôi hơi quê hỏi khơi. Đương
nhiên là lời giải thích rất ư hợp lý cho câu hỏi của tôi. Đành cầm bốn tấm hình
về cất chờ mối khác vậy, chứ biết làm sao!!! Cho mãi đến sau này, qua những lời
ong đi ve lại. Tôi mới vỡ lẽ ra là ông Tú xuất đã đem những bức hình chụp bốn
tấm tranh của tôi đi gạ bán cho một số
nhàn khách có máu. Thực ra ông đâu có hùn hạp gì với ai. Trước tới giờ
chỉ chơi Solo một mình. Vẫn là một cách nói khéo của một người từng trải, dồi
dào những kinh nghiệm để cầm mẫu hàng của người đi chào bán mà mọi người không
biết mình nhảy cò cò. Tuyệt khéo!
- Ông Tú
xuất hả? Anh không biết ổng sao? Cò cụ đó! Cụ thấy anh có quyển sách hay, quí
hoặc biết anh có bức tranh giá trị lớn có thể mổ được. Sẽ dẫn đến hai trường
hợp xảy ra. Nếu đã có “đài” cài sẵn. Hỏi giá. “ Bèo” cụ thương lượng thuổng
luôn. Chưa có “đài”. “ Cứng ”.Vẫn trả giá. “Hượm!” về lấy tiền đã. Thời gian về
lấy tiền này là lúc cụ áp dụng kế “ Hoãn binh ” cũng chính là lúc cụ đi dò
“đài”. Có nhiều lúc “Đài” xa, tín hiệu yếu khó bắt phải dò mất cả tuần. Đúng
tần số. Điện mạnh. Phát khỏe. Quay ra hốt !
“ - Chết!
Chết! Quên béng đi mất! Về nhà xem lại mới biết có rồi! Thông cảm! Xin lỗi! Xin
lỗi. Trí nhớ dạo này kém quá!”
Phải hiểu.
Trật “đài” rồi. Một kiểu thoát xác thật tế nhị.
- Rất ít
khi ổng mua lắm. Trừ những món ổng biết dù bán đổ đi cũng không lỗ mới mua. Còn
ngoài ra tuyền làm môi giới ăn huê hồng không hà! Chắc ăn, cứng như bắp nếp
nguội dzậy đó!. Một người bạn mới quen rành sáu câu về ổng đã nói với tôi như
thế đấy.
- Anh coi!
Mắt tui như dzầy mà tám, chín giờ tối nó đem tranh bán cho tui! Sao coi cho rõ?
Ông Y xe đạp đã có lần chỉ vào cái tròng kính cận dầy cui thở than với tôi như
vậy.
- Ông Tú
xuất hả? Ổng có nhiều chiêu độc lắm đó. Mấy ông nhà Văn, nhà nghiên cứu lão lão
mới quen hay chưa biết ổng, bị dính cựa ổng goài. Ổng hay lắm nha! Thấy các vị
lão bối nào dễ dãi có nhiều sách hay, sách quí. Ổng lân la củng cố niềm tin sau
đó hỏi mượn một loạt cả năm bảy cuốn về nghiên cứu. Ít hôm sau niềm nở đem trả
lại vài cuốn và thông báo là đã nghiên cứu xong. Xin mượn tiếp. Số lượng còn
tùy theo khổ chủ dễ dãi ở mức độ nào… Cứ
mượn tới rồi trả lui, năm ba bận như vậy. Ta thử làm bài toán cộng trừ.
Bạn có nhớ là ổng đã mượn bao nhiêu cuốn và đã trả lại bao nhiêu cuốn không?
Biết tỏng là mấy vị trí thức già trí nhớ đâu còn minh mẫn bằng mình… Thế là lâu
lâu có lúc cần tham khảo các vị trí thức lão thành đó lục tung cả tủ sách của
mình ra mà vẫn không thấy. Đần cả người mà cũng không biết mình để đâu, thất
lạc khi nào! Năm thì mười họa có vị nào còn tỉnh chút hỏi đến ổng thì luôn nhận được câu phản hồi là đã trả đủ từ
lâu lắm rồi đâu có giữ làm gì! Tuyệt chưa?
Đừng bắt chước nghe! Đọc cho biết để rút kinh nghiệm. Ai mượn gì nhớ ghi
dzô sổ. Trả rồi nhớ gạch đi. Đặng sau này biết đường mà rờ. Nhớ đó!
(còn tiếp).
3 - NHỮNG
NGƯỜI BẠN TỐT VỪA LÀ THÀY CỦA TÔI.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét