Thứ Năm, 23 tháng 9, 2021

ĐỈNH KHIẾT ĐẠI VIỆT LỊCH TRIỀU ĐĂNG KHOA LỤC.

          

      ĐỈNH KHIẾT ĐẠI VIỆT LỊCH TRIỀU ĐĂNG KHOA LỤC.


        Xin giới thiệu thêm một bộ sách quí hiếm trong dòng in bản gỗ của Việt Nam chúng ta. " ĐỈNH KHIẾT ĐẠI VIỆT LỊCH TRIỀU ĐĂNG KHOA LỤC ". 

 

       Bản in gỗ. Niên đại xuất bản được ghi trong sách là Cảnh Hưng 40. (1779). Nếu tính đến năm nay ( 2013 ) thì nó đã được 234 tuổi. Bộ sách gồm có 03 quyển đóng thành hai tập.  Khổ giấy: 16.5cm x 28cm. Quốc Tử Giám Tàng Bản. Bộ sách này được bảo quản khá kỹ nên còn rất tốt khoảng hơn 90%.



      

                                   Đăng Khoa Lục Tự.


              
Trang chót phần tự. Có ghi năm cho in khắc bản.

    “ Hoàng Triều Cảnh Hưng Vạn Tỉ niên…”


Trang nhất (Tờ 1): Dòng đầu tiên: “Đỉnh Khiết Đại Việt Lịch Triều Đăng Khoa Lục”. Quyển chi Nhất. Dòng thứ hai: Quốc Tử Giám tàng bản.

 

TẬP I.

 

Quyển chi Nhất:

 

    Trong quyển chi Nhất gồm có:

         Phần Tự :  Có 03 tờ.

         Quyển thủ :  Có 11 tờ. Đánh số từ:  01 đến 11. Ghi từ Đời nhà Lý. ( Lý Nhân Tôn Hoàng Đế ) qua đời Nhà Trần. ( Trần Anh Tông Hoàng Đế).

         Quyển Nhất chính thức. Bắt đầu từ tờ 15.  Có 53 tờ. Đánh số từ 01 đến 53. Ghi từ: Từ đời nhà Lê. (Lê Thái Tổ). Nhân Hoàng Đế…Đến Lê Hiến Tôn Hoàng Đế...( Khoa Nhâm Tuất. Cảnh Thống 5 ).

 

Quyển chi Nhị: (Phần thượng). Có 32 tờ. Đánh số từ 01 đến 32.  Bắt đầu từ tờ 69 của Tập I):    

 

         Tờ 69 / Tập I.   Ghi từ. Uy Mục Đế Nguyên Niên. Khoa Ất Sửu. Đoan Khánh Nguyên Niên. Cho đến Nhà Mạc. Khoa Mậu Tuất. Mạc Đại Chính năm thứ 9. ( Tờ 28. Khoa Tân Sửu. Mạc Quảng Hòa sơ niên. (Tờ 30. Trang 98).

 

TẬP II.

 

Quyển chi Nhị. (Phần hạ). Có 31 tờ đánh số từ 33 đến 63 nằm trong Tập II.

 

         Trang đầu tờ 1/ Tập II. (Tờ 33 của quyển chi Nhị).  Ghi từ Khoa Giáp Thìn. Mạc Quảng Hòa năm thứ 4  cho đến Khoa Nhâm Thìn. Quang Hưng năm thứ 15 (1592) ( Tờ 62 Tập II).

 

Quyển chi Tam: Có 69 tờ.( Bắt đầu từ tờ 32 của Tập II).

 

       Trang 32a/ Tập II.  Ghi Lê Thế Tôn Hoàng Đế. Từ Khoa Ất Mùi. Quang Hưng năm thứ 18 (1595). Cho đến Cảnh Hưng năm thứ 40 (1779).  Trang 97a qua trang 98b/Tập II ghi thêm Cảnh Hưng năm thứ 42 (1781)…Trang 99a ghi Cảnh Hưng năm thứ 46 (1785). Trang 99b ghi Chiêu Thống Nguyên Niên (1787). Đinh Mùi đến hết.

 

Như vậy bộ sách này gồm 03 quyển và quyển thủ. Được cho đóng thành 02 tập.

Phần tự có 03 tờ.

Quyển Thủ có 11 tờ.

Quyển chi Nhất có 53 tờ.

Quyển chi Nhị có 63 tờ.

Quyển chi Tam có 69 tờ.

Tổng cộng có 199 tờ. Tập I có 99 tờ. 198 trang.  Tập II có 100 tờ.  200 trang. Tổng cộng hai tập là 398 trang.

 

         Theo như lời giới thiệu ở đầu sách. Bộ sách ĐỈNH KHIẾT ĐẠI VIỆT LỊCH TRIỀU ĐĂNG KHOA LỤC được cho in khắc bản gỗ vào thời Cảnh Hưng thứ 40 (1779). Nhưng ở phần cuối của quyển III thấy có khắc in thêm từ khoa Cảnh Hưng 42 đến khoa Chiêu Thống Nguyên Niên (1789). Nhiều hơn 10 năm so với lời đầu sách ( 1779 đến 1789). Phải chăng bộ sách này đã được cho tái bản vào thời Chiêu Thống Nguyên Niên? Hay đến năm Chiêu Thống Nguyên Niên mới khắc xong nên tiện thể cho ghi thêm các khoa vào?

 

 

       Bộ sách in khắc gỗ  “ ĐỈNH KHIẾT ĐẠI VIỆT LỊCH TRIỀU ĐĂNG KHOA LỤC ” này không hiểu được là chỉ in một lần duy nhất hay có cho tái bản. Có Phường hội nào cho in thêm hay không?  

      Nhưng ở phương diện nghiên cứu học thuật thì Bộ “ Đỉnh Khiết…” in theo lối vỗ bản gỗ thấy rất hiếm chưa thấy xuất hiện thêm bản khắc nào khác. Đa phần các nhà học giả giới thiệu trên sách báo một vài bản chép tay dựa theo bộ sách này. Đơn cử ngay trong bộ sách “ Tìm hiểu Kho sách Hán Nôm của Trần văn Giáp ” In lần thứ hai năm 1984. Khi nhắc đến bộ “ Đỉnh Khiết…” này cũng nói rõ rằng đã dựa vào một bản chép tay để mà giới thiệu. Chứ không phải từ bản in khắc. Một bản viết tay khác được đăng trên mạng được lấy làm minh họa dưới đây.

        Nói về tính trung thực giữa các bản in với bản chép tay của các bộ sách xưa đa phần các nhà nghiên cứu điều cho rằng:

     - Bản in khắc do tập thể thực hiện, việc kiểm tra bản khắc có phần chặt chẽ nên sự sai phạm nếu có cũng không đáng kể. Có một điều cần lưu ý trong bản khắc nguyên gốc đôi khi một đôi chỗ vài chữ bị bỏ trống hoàn toàn là bởi lý do người khắc đọc không ra chữ nên đã bỏ qua hoặc trong lúc in chữ bị mẻ nhiều quá nên thợ in đục bỏ luôn. 

     - Bản chép do cá nhân thực hiện nên dễ dẫn đến việc sai sót. Chủ yếu là chép lại từ bản in vỗ gỗ đã được xuất bản. Vì sách in gỗ rất khó khăn phức tạp nên số lượng xuất bản không nhiều, đâm ra hiếm nên những nhà nghiên cứu thời xưa chọn giải pháp chép lại là hay nhất.

       Như vậy với bộ sách Đỉnh Khiết Đại Việt…hiện đang lưu trữ cũng có thể coi là một tiêu bản để làm mốc. Ta có thể dựa vào nó để mà so sánh và tìm hiểu với một bản khác nếu có.

 

       Nếu dựa vào niên đại của khoa cuối được in trong sách là năm Chiêu Thống Nguyên Niên (1789). Ta có thể cho rằng bộ sách này được ra đời phải từ năm 1789 trở về sau chứ không thể in vào thời Cảnh Hưng 40 (1779). Chuyện này không hiểu là đúng sai. Nếu đúng thì nó vẫn còn nằm trong đời Hậu Lê. Nếu được cho in khắc vào thời Nguyễn Gia Long. Chắc chắn là phải có lời chú thích của các quan chức đương thời của Triều Nguyễn hoặc các khóa được mở ra trong những thời kỳ đó. Chẳng hạn như bộ được viết tay dưới đây có ghi thêm một số khoa thời Nguyễn. Phải chăng là đã dựa vào bộ cũ rồi bổ sung thêm.

 

Có một sự khác biệt nho nhỏ ở phần niên đại:

      Trong bản in khắc ghi: “ Hoàng Triều Cảnh Hưng Vạn Tỉ niên…”

      Trong bản viết tay ghi: “ Hoàng Triều Cảnh Hưng Vạn Vạn niên…”


       

  “ Hoàng Triều Cảnh Hưng Vạn Vạn niên…”

 

Vài trang ĐỈNH KHIẾT ĐẠI VIỆT LỊCH TRIỀU ĐĂNG KHOA LỤC trên mạng. Sách viết tay.


        

Trang đầu tiên “ Đăng Khoa Lục ” bản viết tay được chụp lại. Nguồn. National Library of Vietnam/ Thư viện Quốc gia Việt Nam.

 

“Bộ sách ghi chép những người thi đỗ đại khoa từ triều Lý đến hết triều Lê. q.03: Từ khoa Quang Hưng thứ 18 (1575) đến Cảnh Hưng thứ 40 (1779). Sau nội dung chính kê trên, sách còn chép thêm một số khoa thi triều Nguyễn như khoa Minh Mệnh Nhâm Ngọ (1822), khoa Tự Đức thứ nhất (1848), khoa Tự Đức Mậu Thìn (1868), khoa Tự Đức Tân Mùi (1871) nhưng không ghi đủ tên người đỗ mà chỉ ghi tên một số người như Nguyễn Ý 阮意, Phm Thanh 范清, Nguyn Tái 阮再, Tng Duy Tân 宋維新…” .


       

Trang cuối cùng của ĐỈNH KHIẾT ĐẠI VIỆT LỊCH TRIỀU ĐĂNG KHOA LỤC được ghi chép là khoa Tân Hợi. Tự Đức Nguyên niên.

 

 

      Như vậy bộ này được sao chép lại vào thời Nhà Nguyễn sau Tự Đức Nguyên Niên (1848). Không hiểu là bộ sách chép tay này có dựa vào bản khắc gỗ của Quốc Tử Giám hay bản nào khác. Vì trong bản khắc có các khoa từ Cảnh Hưng 42 đến Chiêu Thống Nguyên Niên nhưng bản viết tay không hiểu sao lại bỏ không ghi các khoa nêu trên.

 

       Theo như sự đánh giá chung của giới học thuật Việt Nam phân định giữa loại vết tay và bản in.

 * Bản viết tay của chính tác giả (thủ bút) nó có giá trị tuyệt đối.

             * Bản in loại khắc bản gỗ. Có hai loại bản khắc. Bản Kinh và Phường. Bản Phường do tư nhân đảm nhận, giống như các nhà xuất bản của ngày nay. Bản Kinh thường được một nhóm quan chức triều đình đảm nhận chịu trách nhiệm duyệt xét và hiệu đính nên nội dung cùng bản khắc đẹp ít sai sót. 

           * Bản chép tay có độ tin cậy không cao vì còn tùy thuộc vào trình độ người chép. Tam sao thất bản. Bản chép tay chỉ có giá trị ở mặt tham khảo, so sánh và sưu tập.

   Do đó bản Kinh thường được các nhà nghiên cứu đánh giá cao hơn bản Phường và bản chép tay rất nhiều.

 

Một vài trang trong bộ sách " Đỉnh Khiết Đại Việt Lịch Triều Đăng Khoa Lục ".  Bản in gỗ.



Hai trang kế chót của bộ sách ghi Cảnh Hưng 42. Tân Sửu khoa.


Hai trang chót của bộ sách ghi Chiêu Thống Nguyên Niên. Đinh Mùi khoa.

 

  

 

Dưới đây là một bảng liệt kê về bộ sách " Đỉnh Khết (Khế) Đại Việt Lịch Triều Đăng khoa Lục" của Viện Hán Nôm. www.hannom.org.vn

 

1030. ĐỈNH KHẾ ĐẠI VIỆT LỊCH TRIỀU ĐĂNG KHOA LỤC 鼎鍥大越歷朝登科錄 [ĐĂNG KHOA LC 登科錄 ĐẠI VIT LCH TRIU ĐĂNG KHOA LC 大越歷朝登科錄] Nguyễn Hoãn 阮梡 hiệu đính; Vũ Miên 武綿, Phan Trọng Phiên 潘仲藩 , Uông Sĩ Lãng 汪士郎 , đồng biên tập và viết tựa năm Cảnh hưng 40(1779). Quốc tử giám tàng bản.  

 

 

7 bản in, 1 bản viết. 

  VHv. 650/1-2: 390 tr., 27x16, in. 

VHv. 651/1-2: 390 tr., 28x16, in. 

VHv. 2140/1-3: 368 tr., 29x16 (thiếu phần đầu và cuối), in. 

A. 2752/1-2: 440 tr., 27x17, in. 

A. 1387: 440 tr., 28x17, in. 

VHv. 293: 138 tr., 27x16 (thiếu nhiều), in. 

VHv. 1651: 108 tr., 28x17(thiếu nhiều), in. 

A. 379> 440 tr., 27x16, viết. 

MF. 2434 (VHv. 1651).  Paris. EFE0. MF. II/2/188.

 

 Uông Sĩ Lãng

 

1. Đỉnh khế Đại Việt lịch triều đăng khoa lục (A.379)

2. Đỉnh khế Đại Việt lịch triều đăng khoa lục (VHv.1651)

3. Đỉnh khế Đại Việt lịch triều đăng khoa lục (VHv.293)

4. Đỉnh khế Đại Việt lịch triều đăng khoa lục (A.1387)

5. Đỉnh khế Đại Việt lịch triều đăng khoa lục (VHv.2140/1-3)

6. Đỉnh khế Đại Việt lịch triều đăng khoa lục (VHv.651/1-2)

7. Đỉnh khế Đại Việt lịch triều đăng khoa lục (A.2752/1-2)

8. Đỉnh khế Đại Việt lịch triều đăng khoa lục (VHv.650/1-2)

 

                                           ( Nguồn WWW. HANNOM.ORG.VN)

 

Theo nguồn hannom.org.vn. thì Viện hiện dang lưu trử 07 bản in và một bản viết như trên. Có 03 bản xấu. và có 04 bản còn tốt như sau:

 VHv. 650/1-2: 390 tr., 27x16, in. 

VHv. 651/1-2: 390 tr., 28x16, in

A. 2752/1-2: 440 tr., 27x17, in. 

A. 1387: 440 tr., 28x17, in.

 

 Bốn bản in này còn tốt. Đa số ghi là có (1-2 Tập/bộ). Hai bản ( VHv. 650 & 651) có cùng 390 trang. Hai bản  (A.2752 & A.1387 ) ghi có cùng 440 trang. Khổ giấy trung bình 16-17cm x 27- 28cm. Có sự xê xích giữa 04 bản này là 01 cm. Không đáng kể.

  Trong 07 bản in. Chỉ có bản( VHv.2140 ) là ghi số lượng 03 Tập/bộ. Còn lại đều 02 tập/bộ.

  Khổ giấy tất cả gần giống nhau. Xê xích 16cm x 28cm. So với bản tôi có: 16.5cm x 28cm.(có thể do sự đo đạc đại khái)

 Về phần số trang cũng có cách biệt đôi chút. Bản của tôi có 398 trang. Nhiều hơn hai bản ( VHv.650 & 651 ) 08 trang. Nhưng lại ít hơn hai bản ( A.2572 & A.1387 ) đến 42 trang.Một khoảng cách đến 21 tờ. Con số này không thể nhỏ. Rất có thể Triều Nguyễn cho tái bản và bổ xung thêm những khoa thi sau này.

 Về số lượng tập/bộ. Bản tôi hiện có cũng là 02 tập. Nhưng do 03 quyển đóng lại. Không rõ bốn bản in của Viện Hán Nôm này là bao nhiêu quyển đóng thành 02 tập hay chỉ có 02 quyển. Mặc dầu ghi số trang rất cụ thể.

  Rất tiếc là không có bản chụp lại những bộ sách của Viện Hán Nôm đang  lưu trữ để mà so sánh xem nó ra sao.

  Một điểm quan trọng để ta cần phải lưu ý. Đó là cùng là bản in nhưng lại có sự khác biệt nhau về số cuốn và số trang. Như vậy phải có vấn đề. Rất có thể do sự tái bản mà ra chăng? Nên mới có sự thêm thắt vào hoặc giảm đi?

 

Cauminhngoc

       30/12/2012