Thứ Bảy, 4 tháng 1, 2014

NGUYỄN GIA TRÍ ?

                    NGUYỄN GIA TRÍ ? 
                          

                                        
            Hình 01. Nguyễn gia Trí.  Đôi trâu cày. Sơn dầu trên bố. Kích cỡ 50cm x 40cm.


                                                                      
                                          Hình 02, Chữ ký tác giả nơi góc phải dưới bức tranh. 

         Nói đến Nguyễn gia Trí (1908-1993). Tôi dám chắc với quí vị là những người mê tranh ở Việt Nam, nhất là lãnh vực sơn mài không ai là không biết đến. Với sự nghiệp lẫy lừng, vang dội như vậy nên tôi mạn phép không nhắc đến tiểu sử của ông nữa vì nghĩ làm như thế là quá thừa. Chủ đích ở đây chỉ muốn đưa ra mổ xẻ một tác phẩm sơn dầu có ký tên “TRI”, xem nó có phải là tranh của họa sĩ Nguyễn Gia Trí vẽ vào giai đoạn khởi nghiệp hay không?

       Nếu nói về những tác phẩm sơn mài của Nguyễn gia Trí (thật cũng như giả) ta có thể tham khảo ngoài đời cũng như trên mạng rất nhiều. Nhưng nói về sơn dầu do Nguyễn Gia Trí vẽ thì rất khó tìm. Có thể vì ông chuyên chú về sơn mài nên mảng sơn dầu ông không mấy quan tâm đến. Nhưng nói như thế không phải là ông chưa từng vẽ tranh sơn dầu. Vào khoảng cuối thập niên 80/ TK/20 (Trước khi mua bức "Đôi trâu cày"). Tôi bắt tận tay day tận trán một bức tranh sơn dầu trên bố của Nguyễn Gia Trí vẽ cảnh bến thuyền với màu tím than chủ đạo có kích thước trung bình, do ai đó gởi cho bạn Cao Anh Võ của tôi, để giới thiệu bán cho một vị Việt kiều Bỉ với giá một cây vàng nhưng không thành và khi đó cũng chẳng biết tên tác phẩm gọi là gì. mãi sau này thông qua báo chí mới biết bức tranh có tên là "Bến Hồng Quảng". Và sau khi mua bức "Đôi trâu cày" năm 2005, không nhớ là bao lâu thì tôi được anh bạn Vu Gia cho xem quyển sách (quên mất tựa) xuất bản ở Mỹ. Bên trong có in hai bức tranh sơn dầu vẽ vợ chồng nhà văn Nhất Linh mà tôi đã xin chụp lại làm tư liệu. Ngoài ra thì chưa có dịp biết đến bức tranh sơn dầu nào khác do Nguyễn Gia Trí vẽ. Phải nói là cực hiếm thấy những tác phẩm vẽ sơn dầu đích thực của Nguyễn Gia Trí để mà tham khảo, so sánh. Thậm chí trong sách báo cũng chưa thấy nhà phê bình hay những mẩu tin nói đến loại hình tranh sơn dầu của ông. Theo tôi cũng không lấy gì làm khó hiểu bởi Nguyễn Gia Trí chuyên chú vào việc làm sơn mài nên không có thời gian để vẽ sơn dầu. Bởi vậy khi muốn tham khảo hay đối chiếu sẽ gặp rất nhiều khó khăn vì không có nguồn tư liệu. Đã thế ở Việt Nam chúng ta là chưa có một cơ sở giám định nào có đủ uy tín tầm cỡ Quốc tế để cho những người ham mê có chỗ dựa mỗi khi cần. Hiện nay các nhà sưu tập, cũng như những người chơi tranh nghiệp dư trong nước đang tự bơi với nhau. Tùy theo kinh nghiệm mà phán đoán cho mẫu vật chơi của mình. Độ xác thực rất hạn chế, nhưng dẫu sao cũng còn có chút ít hy vọng vào sự bảo tồn các tác phẩm đang còn trong phạm trù nghi ngờ đó do những người có tâm huyết góp nhặt, giữ gìn chờ đến một ngày sáng lạn. Có thể đúng…sai…chưa biết như thế nào. Nhưng chắc chắn rằng những tác phẩm được chăm chút đó nó phải có một cái gì đặc thù nên mới được nhà sưu tập cất công giữ lại.

 

I – KHÁI QUÁT BỨC TRANH “ĐÔI TRÂU CÀY”.

      Bức tranh "Đôi trâu cày" hiện đang giữ, khi mới mua tôi chỉ có suy nghĩ đơn giản, đây là một bức tranh đẹp. Một tác phẩm do một họa sĩ có tên TRI, TRÍ, TRỊ...v.v... nào đó vẽ. Nhìn vào hình thức tổng thể bức tranh, nó vẫn còn ấp ủ cái phong cách của giai đoạn đang phát triển chưa thoát khỏi nền nếp của trường lớp. Về hình thức chất liệu bức tranh như: Sơn, bố vẽ, đinh cùng khung căng bố. Tất cả bộc lộ khá rõ bị lão hóa do khí hậu nóng, ẩm của miền nhiệt đới tác động vào. Màu của thời gian hằn lên nó không thể che đậy được, chứng tỏ nó ra đời đã khá lâu, ít gì cũng phải từ giữa thập niên 50 của thế kỷ XX trở về trước (Dấu vết tự nhiên không do ngụy tạo). Chớp nhoáng thẩm định tổng thể như vậy. Cộng thêm có một cái gì đó thúc bách. Tôi quyết định mua

         1 - Màu săc trong bức "Đôi trâu cày" qua ảnh chụp. 

    Màu sắc bị thời gian và ánh sáng tác động vào lâu dài khiến sắc độ xuống cấp làm cho bạc hẳn đi, nhưng vẫn còn thấy rõ màu sắc nguyên thủy, gồm các họ màu chủ như: Xanh lá, xanh biển, vàng, nâu và trắng...

  


      Hình 03. Sắc trong bức "Đôi trâu cày" không còn trung thực vì đã qua ảnh chụp.

          2 - Khung căng và bố của bức tranh qua ảnh chụp.


      Hình 04. Một phần cạnh khung gỗ (châssis) cùng bố và đinh có dấu hiệu bị lão hóa do thời gian tác động. (Khung bảo vệ tranh bên ngoài màu trắng mới làm). 



                                            Hình 05. Chi tiết mặt bố sau lưng bức tranh.


       II – MÀU SẮC TRONG HAI BỨC TRANH VỢ CHỒNG NHÀ VĂN NHẤT LINH DO NGUYỄN GIA TRÍ VẼ.

            Một hôm anh bạn thân Vu Gia, nhà chuyên nghiên cứu về nhóm Tự lực văn đoàn, ghé cửa hàng chơi. Anh khoe là mới mượn một cuốn sách ngoại nhập nói về Nhất Linh rất hay và đưa cho tôi xem. Tôi lật ra đọc thử và rất quan tâm đến hai bức chân dung ông bà Nhất Linh do Nguyễn gia Trí vẽ bằng sơn dầu. Với tôi lúc đó trong đầu chỉ có một chiều suy nghĩ là tranh sơn dầu của cụ Trí rất hiếm, kể cả tư liệu trong sách báo nên tôi xin anh Vu Gia cho chụp lại. Anh đồng ý.



          
       Hình 06. Ông bà Nhất Linh do Nguyễn gia Trí vẽ bằng sơn dầu. Chụp lại trong sách.

           Từ lúc có trong tay hai tấm ảnh chụp ông bà Nhất Linh do Nguyễn Gia Trí vẽ có những gam màu như: Vàng chanh, xanh trời và nâu xậm cộng với những bệt màu trắng rơi lớt phớt trên mặt và tay của ông bà Nhất Linh làm tôi đặc biệt quan tâm vì màu sắc rất gần gũi với bức “Đôi trâu cày” mình đang có, đồng thời lại có thêm chữ ký “TRI” trên tác phẩm nữa. Tôi đặt câu hỏi. Tại sao lại có quá nhiều điểm tương đồng như vây! Phải chăng "Đôi trâu cày" là tác phẩm của họa sĩ Nguyễn Gia Trí vẽ?


III - MÀU SẮC TRONG TRANH CỦA JOSEPH INGUIMBERTY. 

Với bảng màu: Vàng chanh, xanh trời, nâu xậm và màu trắng nơi những tác phẩm Inguimberty vẽ dưới đây. Phải chăng đã có phần ảnh hưởng đến người học trò Nguyễn Gia Trí và họa sĩ Đan Hoài Ngọc của ông?

1 - Của ông thày Inguimberty.





 Hình 07. Toàn bộ " Hình ảnh về tranh Joseph Inguimberty ". Nguồn Google.


2 - Của học trò Đan Hoài Ngọc (1908- ?). 
Họa sĩ Đan Hoài Ngọc. Tốt Nghiệp Khóa IV (1928-1933). Tất cả 05 bức. Hết 4 bức vẽ trên ván gỗ có kích thước: 33cm x 24cm. Vào khoảng những năm 1928-1935. Cùng thời với Nguyễn Gia Trí. Màu sắc trong tranh của Đan Hoài Ngọc nhìn chung là có ảnh hưởng ông thày Inguimberty rất rõ chứ không riêng gì họa sĩ Nguyễn Gia Trí.




IV- VỚI NHỮNG LẬP LUẬN CHỨNG MINH.

        Khi muốn sàng lọc một tác phẩm hội họa. Có hai vấn đề cơ bản đòi hỏi ta phải giải quyết. Đó là chữ ký và bản thân tác phẩm. 

            Nếu muốn chứng minh bức tranh “ Đôi trâu cày” này của Nguyễn Gia Trí, ta cũng phải dựa trên những điều cơ bản đó để thẩm định. Ta thử đem mổ xẻ ở phần dưới đây.


                                                      A - NHẬN XÉT VỀ CHỮ KÝ.

       Họa sĩ Nguyễn Gia Trí (1908 – 1993). Ông sinh ở làng An Trạch, Chương Mỹ, Hà Nội. Ông thi đỗ vào trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương Khóa IV (1928 -1933). Nhưng học được 2 năm thì bỏ dở (1929). Sau lời khuyên của vị hiệu trưởng Victor Tardieu. Ông tiếp tục đi học lại vào Khóa VII (1931 -1936) cùng khóa với Trần Văn Cẩn. Ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ Thuật Đông Dương, năm 1936.     
     Nói về chữ ký của họa sĩ Nguyễn gia Trí thì đến nay cũng chưa có ai làm công tác sưu tập và công bố chính xác là có bao nhiêu dạng. Nhưng xuất hiện thường xuyên trên sơn mài thì dạng chữ ký "Ng. Trí " là phổ cập nhất. Còn chữ “TRI” và “N.G.T” thỉnh thoảng thấy xuất hiện trên các bản minh họa cho sách báo vào những năm 1936 cho đến 1945. ( Ở đây chỉ lấy tên chính thức chứ không kể đến bút danh, nghệ danh).


1 - Chữ ký "TRI" trên bìa sách báo và phụ bản.

- Phụ bản Giai phẩm Đời Nay. 1943.

     Hình 08. Nguyễn Gia Trí. " Kẻ khó chẳng lo ba ngày Tết...". Khắc gỗ màu. Cỡ 24.5cm x 37, 8cm. Phụ bản báo Xuân Đời Nay, năm 1943.



      Hinh 08bis. Chữ ký tác giả duy nhất một chữ  "TRI" với chữ "R" nơi góc phải dưới.  Phụ bản báo Xuân Đời Nay năm 1943. " Kẻ khó không lo ba ngày Tết " 


       - Bìa sách tiểu thuyết "Tiêu sơn tráng sĩ". Do tủ sách Lá Mạ xuất bản năm 1937.

                  Hình 09. Bìa 02 quyển sách "Tiêu sơn tráng sĩ" do Nguyễn gia Trí minh họa. 


 

           Hình 9bis. Chi tiết minh họa trên có chữ ký TRI và  chữ viết tắt N.G.T với chữ "R" in.
 

                                 - Bìa tờ báo Ngày Nay. Năm 1936. Nguyễn Gia Trí minh họa.

                   
    Hình 10. Minh họa bìa báo Ngày Nay. Năm 1936. Với chữ ký " TRI ". Với mẫu tự " R "


                   Phụ bản tập Văn họa kỷ niệm Nguyễn Du. Năm 1942. Nguyễn Gia Trí minh họa.


Hình 11. Nguyễn gia Trí. " Khi tỉnh rượu lúc tàn canh...". Khắc gỗ màu. Cỡ: 21cm x 29.5cm.  

   Hình 11bis. Chữ ký Nguyễn gia Trí, chữ  " ng. TRI " với chữ "R" trong tập Văn họa kỷ niệm Nguyễn Du năm 1942. Như thế ta có được 03 mẫu chữ ký "TRI" với chữ " R "



        - Hai tác phẩm Nguyễn Gia Trí vẽ vợ chồng nhà văn Nhất Linh (Không rõ năm)

 

  Hình 12. Chữ ký Nguyễn Gia Trí. Trong tác phẩm ông bà Nhất Linh. Chữ "Tri" với mẫu tự "r" thường.


2 - Nhận định về chữ ký.

      Dựa vào dạng tự chữ ký chỉ có một chữ "TRI " duy nhất của HS Nguyễn gia Trí xuất hiện trên 03 bìa sách báo và phụ bản kể từ năm 1936 cho đến 1943 như đã nêu trên. Điều này cho thấy cụ Trí chỉ ký duy nhất mỗi chữ “TRI” trên các tác phẩm của mình ở vào giai đoạn đầu từ lúc mới ra trường 1936 cho đến 1945. khi ông hòa nhập vào cộng đồng mỹ thuật nước nhà. (Rất có thể chữ ký “TRI” Nguyễn Gia Trí đã dùng trước đó nữa vì ông đã từng học 2 năm ở Khóa IV rồi mới bỏ dở).  

            3 - Hai quyển sách tham khảo về tên các họa sĩ. 

       Tôi đã dò tên các danh sách sinh viên theo học từng khóa ở hai trường Mỹ thuật Đông Dương và Mỹ thuật Gia Định từ khi thành lập đến nay xem có ai  trùng tên Ng. TRI hay "TRI"  không?.



          Hình 13. Trường Đại học Mỹ Thuật Hà Nội 1925 - 1990. Kế thừa của trường MTDD


                                         Hình 14. Trường Mỹ thuật Gia Định 1913 – 2004.


4 - Tạm kết luận về chữ ký.       

       * Chữ "TRI" với mẫu tự "R" in có khuynh hướng được cụ Trí thường sử dụng nằm trong thời gian từ năm 1936 - 1945 (Dựa theo các bìa sách báo, phụ bản nêu trên ta có ít nhất là ba bản đồng dạng cùng nằm trong mốc thời gian ta lập luận ).

      * Dựa vào tên “TRI” đã được ký trên tác phẩm. Tôi đã cố gắng tìm hiểu và truy nguyên trong một số danh sách của trường Mỹ Thuật Gia Định, Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương để tìm xem có bao nhiêu người mang tên Trí, Tri, Trị… vào thời điểm 1945 trở về trước. Xem có ai trùng tên mà chỉ ký tên mỗi chữ TRI không?  

      Cuối cùng cũng có vài người nhưng xét thấy những mô tả về tay nghề, tác phẩm các vị đó không phù hợp, cũng như chưa thấy có sự trùng khớp nào với những gì sẵn có trên bức tranh “ Đôi trâu cày ” hiện có.

     Tạm kết luận. Chỉ có cụ Nguyễn Gia Trí thường dùng chữ "TRI" để ký tên trên các tác phẩm của mình ở vào những năm 1936 - 1945 mà thôi.


      * Chữ ký "TRI" duy nhất trong bức tranh “ Đôi trâu cày ”. Đem so với chữ "TRI" của ba bản mẫu nêu trên. Ta thấy chữ ký "TRI" trên bức “ Đôi trâu cày ” có cùng mẫu tự "R" giống nhau, có nghĩa là cùng một kiểu chữ in hoa. Từ những sự đồng dạng trên. Ta tạm thời có thể cho là các chữ ký đó nằm cùng giai đoạn 1936-1945. Thời kỳ đầu sau khi tốt nghiệp cụ thường dùng để ký lên tác phẩm của mình và cũng có thể trước đó nữa. 
      

        Mặc dù lập luận là thế, nhưng chữ ký chưa đủ để quyết định toàn phần. Nó chỉ cho ta khái niệm là vật đó thuộc của ai để rộng đường giám xét mà thôi và ta cũng nên hiểu rằng chữ ký là phần dễ giả (ngụy tạo) nhất trong bức tranh. Muốn cho rõ ràng, chính xác hơn ta phải tìm hiểu phân tích cặn kẽ thêm những yếu tố quan trọng khác chứa đựng trong bản thân tác phẩm như là: Bút pháp, màu sắc, sự tác động vật lý của thời gian và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Nếu không có những sự trùng khớp với những yếu tố trên thì chữ ký dù cho có giống trăm phần trăm cũng trở thành diện nghi ngờ... Ta phải hiểu một cách nghiêm túc là. Một họa sĩ chân chính, nghiêm cẩn không ai lại đi ký tên mình vào tác phẩm do người khác vẽ cả. Ngoại trừ trường hợp chính họa sĩ vẽ đi vẽ lại nhiều lần.


       Nói thêm một chút về chữ ký “Ng.Tri” của ông. Đây là kiểu chữ ký thường thấy nhất trên tranh sơn mài. Riêng về phần tranh sơn dầu của Nguyễn Gia Trí thì rất hiếm, chỉ thấy xuất hiện hai bức chân dung ông bà Nhất Linh và bức "Bến Hồng Quảng" mà thôi cùng với chữ ký "Ng. Tri". Ngoài ra chưa rõ như thế nào.
      

        Đối với chữ ký ở vào thời kỳ 1935-1945 (Giai đoạn đầu) thì dù là "Ng. TRI" hay chỉ đơn thuần một chữ "TRI". Cụ đều dùng mẫu tự " R " in viết trong tên của mình. 

      Sau năm 1945, tên trong chữ ký của cụ có chút thay đổi là chữ "Tri" có mẫu tự " r " viết thường chứ không dùng mẫu tự "R" in, như ở giai đoạn đầu và luôn có họ "Ng" đứng trước. Chưa bắt gặp chữ "TRI" duy nhất trong một tác phẩm nào đó của cụ ở giai đoạn sau này.




                      B - NHẬN XÉT VÀ SO SÁNH TÁC PHẨM "ĐÔI TRÂU CÀY"

      Muốn tìm hiểu một tác phẩm hội họa nhưng chưa thể khẳng định do họa sĩ nào đó vẽ. Ta cần phải có sự chứng minh một cách khoa học và minh bạch về:  

*  Màu sắc, kỹ thuật, bút pháp.
*  Thời điểm tác phẩm ra đời. (nguồn gốc) và dấu ấn thời gian tác động trên tác phẩm.
 
     Sau khi phân tích, so sánh với những mẫu vật chủ đã được giới chuyên môn xác định công khai. Nếu tác phẩm cần giám đinh hội đủ các yếu tố ắt có và đủ với mẫu vật chủ được lấy làm chuẩn thì khi đó ta mới có thể yên tâm cho rằng chuyện giám định là có cơ sở và đúng đắn.
 
01/ - Về màu sắc và bút pháp.

          * Về màu sắc thì ta chỉ có thể dựa vào hai bức sơn dầu cụ Nguyễn gia Trí vẽ chân dung ông bà Nhất Linh và một số tác phẩm của Inguinberty làm chuẩn. Ngoài ra không còn thấy tác phẩm vẽ sơn nào khác. Việc làm như thế này có vẻ khiên cưỡng khi nói về chuyện đánh giá mà chỉ dựa vào vài vật mẫu duy nhất. Nhưng muốn làm khác cũng không thể! Đây cũng chỉ là một khía cạnh trong nhiều vấn đề được nêu ra để so sánh chứ chưa phải khẳng định. Dù sao vẫn còn có cái để truy xét dù ít.

        Nhìn tổng quát về màu sắc qua một số tác phẩm của Inguimberty và hai bức tranh Nguyễn Gia Trí vẽ vợ chồng nhà văn Nhất Linh. Một bảng màu khá tương đồng với nhau. Với các màu chủ: Vàng chanh, xanh lá, xanh da trời, nâu và trắng. Lấy đó đem so sánh với bảng màu của bức "Đôi trâu cày". Ta thấy rõ cả ba đều có chung 5 màu chủ như đã nêu trên, chúng cho ta cảm nhận là tất cả cùng chung một gốc mà ra. Có thể nói bảng màu của người thày Joseph Inguimberty đã ảnh hưởng đến người học trò Nguyễn Gia Trí nó mạnh mẽ như thế nào.

        * Về bút pháp. Sử dụng cọ, nét vẽ cẩn thận, tản màu từ tốn, lớp sau đắp chồng lên lớp trước, lên từng phần từ từ tạo viễn cận, màu trắng sẽ được vẽ được rắc, tản cuối cùng tạo ánh sáng hắt trên sự vật. Lối như thế này là kỹ thuật căn bản trường lớp, nó cũng tương tự như kỹ thuật làm sơn mài truyền thống của Việt Nam chúng ta. (Trong sơn mài không thể làm nhanh, phải từ từ, lớp xa nhất sẽ làm trước, cứ tiếp tục như thế cho những lớp sau. Phần sáng nhất sẽ được dán bằng vàng hay bạc sống ở lớp cuối cùng có thể phủ lớp sơn mỏng hoặc không).
          Trong bức tranh “Đôi trâu cày”. Những vệt sơn màu trắng được tác giả rải lớt phớt sau cùng trên lưng trâu, trên cánh đồng...v.v... Trong hai bức tranh vẽ chân dung ông bà Nhất Linh. Màu trắng của sơn cũng vẽ được tản sau cùng trên mặt, tay bà Nhất Linh và một số nơi khác… Tất cả cho thấy có một sự giống nhau rất rõ ràng, do cùng một người hành cử theo thói quen, theo sở thích. Một phong cách cá nhân khó mà lý giải như thế nào cho trọn vẹn. Phải chấp nhận vì nó bộc lộ cho ta thấy cái chất, cái tính đặc thù cá nhân trong sản phẩm do chính họ tạo ra. Đó cũng là “style” của mỗi người. Nhìn vào là thấy ngay là họ, không nhầm lẫn với ai khác. Điển hình ông hay dùng màu trắng rắc, tản nhẹ sau cùng cho những nơi sáng nhất.
        Một sự gần gũi về màu sắc cũng như kỹ thuật hội họa, có nhiều điểm gần gũi nhau. Phải chăng bức “ Đôi trâu cày ” này do cụ Nguyễn Gia Trí vẽ?.


02/ – Chi tiết về vật tư cùng dấu ấn thời gian trên tác phẩm cùng thời điểm ra đời.

     a / - Chi tiết vật tư cấu thành tác phẩm và dấu ấn thời gian.

             * - Về kích thước:
     Nhìn vào kích thước bức tranh có khổ 50cm x 40cm. Với cái kích thước khiêm nhường như thế này cộng với độ cũ. Theo kinh nghiệm tôi nhận định là nó được vẽ vào khoảng thời gian trước 1945 với những lý do sau:
          
            Trong giai đoạn tiền chiến (1945 trở về trước). Thời khắc bấp bênh của xã hội cái nghèo, cái khó khăn cùng chiến tranh dai dẳng đeo đuổi đè nặng lên đôi vai mọi người. Giới văn văn nghệ sĩ khi đó cũng không tránh khỏi. Một phần vật tư về vẽ hẳn cũng không nhiều...v.v... Ở một hoàn cảnh như thế thì với các họa sĩ. Một phần do nhà cửa của người Việt ở giai đoạn đầu thế kỷ 20 trở về trước đa phần là không lớn, nhà thường 3 gian nên khoảng vách khá khiêm tốn. Một phần tư duy nệ cổ vì thế chuyên bày biện và trang trí theo phong cách Đông Phương. Ít có người chú ý đến thể loại tranh theo trường phái phương Tây trừ những người theo phái Tây học. Do vậy mà đã ảnh hưởng không ít đến các họa sĩ xứ ta khi đó. Đa số các họa sĩ thường chọn khổ tranh vừa hoặc nhỏ không lớn để vẽ. Các tác phẩm có khổ lớn thường do đặt hàng hoặc vẽ để tham dự triển lãm mà thôi (1).

        * -  Về vật liệu vẽ:

           i/ 
Bố vẽ. 
          - Bố có hạt to, không có sơn nền phủ sẵn, phải tự quang lớp sơn nền để che lớp bố trước khi vẽ.(débarrer). (Ngày nay bố đã phủ nền sẵn đem về chỉ việc căng lên khung rồi vẽ).
          - Khô mủn dễ bục, sợi mất độ dai. 
          - Cạnh ngoài chung quanh khung mang sắc nâu xậm, lưng tranh toàn diện xuống màu xám tro. 

       Phải chăng ở thời điểm mới tiếp cận với nền hôi họa phương Tây nên vật tư về nghề vẽ chắc không có nhập về đại trà như bây giờ. Do vậy nếu có một miếng bố khổ lớn, chưa chắc người họa sĩ họ có can đảm để nguyên vẽ hết? Hay phải tiết kiệm chia ra để được vẽ nhiều lần và cho gọn nữa? Ta só thể kiểm chứng về chuyện bố vẽ hiếm hoi bằng chuyện một số họa sĩ thời điểm đó đã phải dùng đến ván gỗ hoặc carton để vẽ? Phải chăng vì như thế mà những tác phẩm ở thời điểm giao thời đó còn sót lại đa phần đều có khổ tranh rất khiêm tốn? (Có thể tham khảo kích thước tranh của họa sĩ Đan Hoài Ngọc đã dẫn trên).  
         
          - Phần bố vẽ chỉ có quang lớp sơn trắng làm nền ở phần chính (débarrer), còn phần bố rìa cạnh chỗ căng lên khung gỗ (châssis) để đóng đinh không thấy quang. 
Có vẻ như nguyên liệu sơn vẽ cũng không dư giả thoải mái như ngày nay nên các họa sĩ đôi khi đã phải tự pha chế hay sử dụng thêm chất liệu khác không đúng tiêu chuẩn nên độ bền bị giảm sút một cách đáng kể. Một minh chứng cho thấy phải tự làm, sự thiếu thốn, không dám phung phí chất liệu sơn. Có lẽ giai đoạn này chưa có loại bố đề-ba-rê (débarrer) sẵn như ngày nay. 
          
       ii/ - Về Đinh.
           - Có dấu hiệu rỉ sét tự nhiên,
           - Lớp sét rỉ quanh mũ đinh đã có khuynh hướng cắn vào bố. (Lâu năm)

       iii/ - Về khung gỗ căng bố vẽ. (châssis)
           - Bằng gỗ thông đã khô có dấu tóp rãnh.
           - Khá nhiều chỗ bộc lộ vẻ dáng cũ kỹ. trầy xước, bụi bám. (Lâu năm).
           - Có vẻ tự làm lấy, không phải nơi làm khung chuyên nghiệp thực hiện.

       iiii/ - Về Sơn.
          - Khô đét, dòn, mủn dễ rụng khi cào nhẹ. Dùng tay nhai ngón tay chà, miết mạnh sẽ tơi thành bột.
          - Mặt tranh, sơn bị rỗ, lốm đốm lòi lớp sơn ở dưới và bố.  
          - Không có dấu vết rạn chân chim trên mặt sơn. (Tôi có một bức tranh của họa sĩ Nguyễn phi Hoanh vẽ năm 1937 và một bức vẽ Bảo tàng trong Thảo Cầm Viên Saigon chưa rõ năm vẽ. Chất sơn chết, dòn mủn dễ bong tróc, rụng đi lòi bố chứ không thấy có trạng thái rạn chân chim). (2)


                 b/ - Thời điểm ra đời của tác phẩm:

       Tóm lại. Mặc dù cụ Trí chuyên nghiên cứu và làm sơn mài, nhưng trong thời kỳ còn đang theo học tại trường và chuyện làm sơn mài cũng chỉ ở trong giai đoạn đang còn mày mò nghiên cứu. Nên chuyên ông có vẽ sơn dầu không phải là điều khó hiểu. Đồng thời từ những phân tích nêu trên cộng với phong cách vẽ tả chân cùng bút pháp, bố cục và cách dụng màu còn mang nặng không khí trường lớp như thế này. Rất có thể bức tranh “Đôi trâu cày” được Nguyễn Gia Trí vẽ vào giai đoạn đang còn theo học tại trường. (Nguyễn Gia Trí thi đậu vào Khóa IV từ 1928 – 1933. Nhưng học có 2 năm thì bỏ ngang vào năm 1929) hoặc sau khi ra trường từ năm 1936 trở về sau. 
 

               C - NGUỒN GỐC LƯU GIỮ TÁC PHẨM TRƯỚC ĐÓ. 

         Tôi mua tác phẩm " Đôi trâu cày " tại nhà người con của một nhiếp ảnh gia lão thành đã khuất núi ở miệt Dakao. Quận 1. Năm 2005. Do người bạn tên Tùng có biệt danh " Tùng lựu đạn " dẫn đi mua. Khi đến thất không khí trong nhà gia chủ khi đó có vẻ như đang dọn nhà. Nhìn gian phòng bừa bãi bày ra rất nhiều đồ gia dụng. Đáng chú ý nhất của tôi là ba bức tranh. Thứ nhất là bức vẽ phong cảnh miền biển của A. Ponchin. Thứ nhì là bức sơn dầu vẽ "đôi trâu cày" chỉ ký một chữ “TRI” và thứ ba là bức tranh thủ ấn họa " Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng" của Tú Duyên. Trong phòng khách còn một bộ bàn ghế bằng sơn mài của Thành Lễ nhưng vải gấm bọc rất đẹp đã bị rách nát hết lòi cả mấy thanh gỗ bên trong nhìn rất thảm hại, nếu muốn phục hồi lại phải mất bộn tiền... Do vậy mà bỏ qua không mua, chỉ tập trung thương lượng mua 03 bức tranh mà thôi. Cả hai bức vẽ " biển " của Ponchin và " đôi trâu cày " của họa sĩ “TRI”. Khi mới mua về do bận bịu chuyện kinh doanh nên tôi không có thời gian để truy nguyên về tác giả... Nhưng sau này gặp những dịp may nên đã có trong tay những tài liệu để cập nhật, truy xét về hai tác giả “Ponchin” và TRI” và nhờ đó tôi đã truy nguyên được nguồn gốc của từng tác phẩm. Antoine Ponchin vẽ cảnh biển “ Eo Gió - Kỳ Co ” ở Quy Nhơn. Và bức “Đôi trâu cày ” là của Nguyễn Gia Trí.
      Suy cho cùng ngoài những chứng minh cụ thể đã nêu trên. Còn có thêm một yếu tố khá quan trọng mà ta không thể không quan tâm. Đó là nơi lưu giữ tác phẩm. Tất cả 03 tác phẩm nằm trong nhà của một nhiếp ảnh gia lão thành đã quá cố. Rất tiếc là khi mua thì nhà nhiếp ảnh lão thành đã khuất núi nên không thể trao đổi về tác giả những bức tranh nên đã mù mờ về nguồn gốc tác giả một thời gian khá lâu... Nhưng với những hiện vật của ông để lại. Nó cho thấy gia chủ là người có tầm hiểu biết rất sâu sắc về nghệ thuật. Do vậy mà ông đã dày công lưu giữ những phẩm vật quý giá cho đến khi khuất núi. Không nhiều nhưng được tinh lọc rất cẩn thận, món nào ra món nấy. Toàn phẩm vật có giá trị nghệ thuật đặc sắc. “ Quý hồ tinh. Bất quý hồ đa " có lẽ rất phù hợp với tình huống này. Việc nắm rõ được nơi lưu giữ sau cùng của một tác phẩm là điều rất hữu ích cho việc giải mã về nguồn gốc những tác phẩm chưa được minh bạch rõ ràng. Riêng về tác phẩm “Đôi trâu cày” này có lịch sử mua bán chỉ rõ về nơi lưu giữ sau cùng, cộng thêm những tác phẩm mua kèm cùng thời điểm đã giúp ta có thêm vài yếu tố quan trọng cho việc thẩm định "Đôi trâu cày" này có đúng là của họa sĩ Nguyễn Gia Trí vẽ hay không. 

         Tác phẩm của ông thày Antoine Ponchin và của họa sĩ Tú Duyên. Hai tác phẩm mua cùng một lượt với bức "Đôi trâu cày". (Antoine Ponchin dạy điêu khắc Khóa I & II ở Trường Mỹ Thuật Đông Dương. Mất ở Pháp năm 1934).

                                                                               



 
V - KẾT LUẬN.

       Với một số dữ kiện của bản thân tác phẩm và sự phân tích về chữ ký như đã trình bày ở trên. Tôi cho rằng tác phẩm "Đôi trâu cày" này do họa sĩ Nguyễn gia Trí vẽ chí ít phải vào khoảng những năm 1935 - 1945 chứ không phải ai khác.


VI - LẠM BÀN:      

       Cần nói thêm một chút về những tác phẩm vẽ bằng sơn mài và những bản phác thảo của ông.
      Sau ngày 30/4/1975 cho đến năm 1990. Tác phẩm sơn mài của Nguyễn Gia Trí cũng chưa được quan tâm một cách tích cực như ngày nay, do chuyện ăn chưa đủ no thì chả có gì ham thích bằng miếng cơm manh áo. Nhưng thời gian mươi năm trở lại đây. Thị trường tranh bắt đầu có khuynh hướng chú ý dến tranh của cụ. Cái đòn bẩy này phát nguồn từ chuyện nhà nước đã bỏ một số tiền khá lớn là 100.000 USD ( Tương đương 200 cây vàng ) để mua bộ Vườn Xuân Trung Nam Bắc. Một số tiền quá lớn so với việc mua tranh vào lúc đó. Vì ở thời điểm này một bức tranh của các họa sĩ Đông Dương cũng chỉ chục ngàn đô là cùng. Cho nên khi báo chí công bố số tiền nhà nước bỏ ra một số người đông tình rồi cũng có người cho là quá hớp. Trong đó có ngài BS. Ngô văn Quỹ là người phản ứng tích cực nhất đã viết bài đăng báo cho rằng nhà nước đã làm một chuyện phi lý. Thay vì mua bức tranh treo chơi. Nếu lấy số tiền đó sẽ xây cầu khỉ hay làm chuyện xã hội thì sẽ có bao nhiêu người được nhờ!? ( Với tấm lòng " Bồ -Tát " như thế này chắc hẳn là khi ngài chuẩn đoán, kê đơn chẳng bao giờ ngài lấy tiền của con bệnh! ). Nhân chuyện này tôi có nhớ đến một vị khách khả kính thường mua sách cả tụng đã phát biểu, khi tôi hỏi sao anh lại mua sách nhiều thế. Ông trả lời: “ Mua sách cho các em đọc. Nó đọc thì nở cái đầu. Mua gạo cho chúng ăn. Nó sẽ ra phân hết!”. Mỗi người mỗi ý. Quả thật. Nếu nhà nước không dành quyền tiên mãi để mua thì nay làm sao mà có  cái cho thế hệ mai sau mở mắt? Và bức tranh 100.000 đô đó hiện đang để ở Bảo Tàng Mỹ Thuật đường Phó đức Chính và giá trị của nó là văn hóa. ( Mới được nhà nước công nhận là Quốc Bảo năm 2014 ). Ai cũng có thể vào đó mà thưởng lãm. Chuyện vượt trội này cũng là nguồn cơn của tranh giả ăn theo. Với một nhà làm sơn mài chuyên nghiệp thì chuyện làm giả tranh sơn mài không phải là không làm được. Nếu gặp phải người có tay nghề cao, không hổ thẹn vì chuyện mình làm, cộng thêm sự nghiên cứu kỹ thì tranh có thêm chữ " Ng. Tri " rất đơn giản đối với họ.(cũng may là khổ tranh khá lớn, kỹ thuật không đơn giản nên bọn làm giả cũng hơi kiềng. Nhưng không phải vì thế mà không có...) Còn lý lịch cho tranh thì tùy nghi. Miễn sao cho xuôi tai, giật gân bí hiểm càng ăn khách. 
       Ta phải nhớ kỹ một điều. Tranh của Gia Trí rất hiếm vì những lý do. Với ông không phải ai có tiền muốn là ông làm cho. Nổi tiếng là " Con người cực kỳ phách lối " nên khó gần. Tác phẩm sơn mài của ông, đa phần có khổ tranh lớn hay mỗi bộ đôi ba tấm mà tự làm không có thợ nên thời gian thực hiện kéo dài vài năm là chuyện bình thường. Có lẽ vì thế mà ít khi cụ thích năm tháng vào tranh. Mỗi tác phẩm của ông làm ra đều có nơi chốn đến cư ngụ rất cụ thể, xứng đáng với lý lịch người sở hữu. Ít có dấu hiệu trôi nổi trên thị trường, căn nguyên là người sở hữu và con cái đều hiểu được họ được đang giữ cái gì. Chuyện tranh giả Nguyễn gia Trí này cũng có nhưng ngược với hiện tượng tranh họa sĩ họ Bùi. Khi sống chả thấy bao nhiêu. Khi khuất núi tranh ở đâu mà đổ ra như rươi được mùa?!
     Về phác thảo. Ông thường vẽ phác trên giấy dùng để in báo do nó có khổ giấy to bản giá rẻ dễ mua. Rất khó tìm thấy chữ ký trên những bản phác vì nó chỉ mục đích ghi nhớ không có giá trị, sau khi làm xong chất đống chờ dịp vất, nếu chật chội không còn chỗ chứa. Sau này thấy xuất hiện hơi nhiều phác thảo của ông nhưng đa phần là khổ giấy nho nhỏ. Bức nào cũng có chữ ký hẳn hòi. Đến kinh ngạc!?  Hầu như các họa sĩ Miền Nam trước 1975, ít khi ký tên vào những phác thảo. Nếu có chăng thì chỉ những giòng chữ chú thích để mà ghi nhớ. Ta phải hiểu những bản nháp này sau khi thực hiện xong sẽ vất đi, vậy ký tên vào làm gì?  Thí dụ:


 Hình 15. Hiếu Đệ. Vua Quang Trung và Ban Tham Mưu. Mực nho trên giấy dày. Bản nháp không ký tên nhưng có thủ bút ghi chú phía góc phải dưới.


     Hình 16. Tác giả chưa rõ. Lăng Lê văn Duyệt. Phác thảo sơn mài. Bột màu trên giấy. Kích thước: 67cm x 125cm. Không thấy chữ ký.


       Sau khi HS. Nguyễn gia Trí mất. Chưa ai rõ là cụ có nhận đệ tử không? Bao nhiêu người ? Vào thời gian nào?
       Theo tôi. Với tánh khí của HS.Trí. Muốn ông nhận làm học trò chắc là không dễ. Một người có nhân thân khá lẫy lừng. Một họa sĩ được trọng vọng. Một đảng viên " ĐVDCĐ " loại kỳ lão. Con người có dính dáng đến chính trị đối lập như thế. Chắc là bên an ninh nó khó mà không để mắt đến ông. Sau khi Nhất Linh qua đời. Một bậc đàn anh, người thày mà cụ rất quí trọng, nay đã mất không còn nơi chốn chia sẻ, vì vậy cuộc sống vốn đã khép kín nay càng khép kín hơn.( Có vẻ như Nguyễn gia Trí chưa hề vẽ chân dung cho ai ngoài vợ chồng Nhất Linh. Nguyễn tường Tam ). Chuyện giao tiếp được cho là phiền phức, nên chuyện ông không tiếp hay đuổi thẳng cũng dễ hiểu. Một người bị cho là " cực kỳ phách lối " như thế. Tại sao ông dạy cho họa sĩ Đằng Giao làm sơn mài? Có phải chăng do Đằng Giao lấy Chu vị Thủy con gái Chu Tử, mà Chu Tử là một nhà văn kiêm chủ báo đối lập với chế độ. Chết hụt vài lần. Cùng dân Bắc di cư. Chưa rõ quan hệ xã hội, bằng hữu giữa hai người ra sao! Nhưng mục đích sống có nhiều điểm có thể cho là gần gũi, dễ thân cận..v..v...Phải chăng vì thế mà Đằng Giao được Nguyễn gia Trí cho phép đến nhà thường xuyên và dạy bảo đôi điều về kỹ thuật sơn mài. Trước 1975 tôi không rõ là anh Đằng Giao đã học làm sơn mài chưa vì không nghe anh nói gì về chuyện này ( Anh thường vẽ minh họa cho báo ). Sau 1975 ở giai đoạn mọi người mọi nhà đổ xô làm sơn mài và vẽ lụa kiếm sống thì họa sĩ Đằng Giao có mặt trong số đó. Khi gia đình anh còn ở cạnh chùa Chà gần góc đường Lê thánh Tôn và Nam Kỳ Khởi Nghĩa thuộc Quận Nhất. Tôi thường ghé chơi và bán những quyển sách về hội họa phương Đông cho anh làm tư liệu, tiện dịp xem những tác phẩm sơn mài anh vẽ. Những tác phẩm sơn mài của anh làm rất đẹp, đa số có khổ tranh lớn và anh thường nói nếu không có cụ Trí dạy thì anh chả bao giờ thành công như thế. Đối tượng mua tranh của anh là những người xuất cảnh và Việt Kiều về thăm quê hương.( Tranh sơn mài của Đằng Giao hiện nay rất ít thấy tại Việt Nam ). Thấy tôi có thích sơn mài và khoe có tấm Lê Thy. Anh có đến nhà xem và tỏ ý muốn mua nhưng tôi không bán. Chính vì chung sở thích nên có lần anh rủ tôi đến nhà cụ Trí chơi xem sơn mài của cụ làm nhưng tôi từ chối vì ngại... nay tiếc thì đã quá muộn... ấy vậy mà anh chưa hề khoe với tôi là anh có một tờ phác thảo nào của cụ Trí…Với sự gần gũi đó. Nếu anh muốn có, cụ Trí chắc là không nỡ từ chối.…và chuyện anh không xin vài tờ phải chăng…( Tự trọng, sợ hiểu lầm. Đa phần giấy dúm dó, rách bẩn vẽ nguệch ngoạc, rời rạc. Có thể do vẽ phác trực tiếp vào vóc nên bản thảo không nhiều. Không chữ ký… dễ gì ai tin. Chơi tranh chứ ít ai chơi phác thảo…nhất là chưa đâu vào đâu? ).


                              Một vài phác thảo sơn mài trước 1975.


 Hình 01 - Chưa rõ tác giả và không có chữ ký. Phong cảnh. màu bột trên giấy báo. Khổ giấy 72cm x 125cm.


Hinh 02 - Chưa rõ tác giả và không có chữ ký. Phong cảnh lễ hội. màu bột trên giấy báo. Khổ giấy 85cm x 124cm.


Hình 03 - Chưa rõ tác giả và không có chữ ký. Phong cảnh cổng vào chùa. Màu bột trên giấy báo. Khổ giấy: 75cm x 104cm.



Hình 04 - Chưa rõ tác giả và không có chữ ký. Phong cảnh chiếc cầu đỏ. Màu bột trên giấy báo. Khổ giấy: 87cm x 122cm.


Hình 05 - Chưa rõ tác giả và không có chữ ký. Phong cảnh lễ hội. Màu bột trên giấy báo. Khổ giấy: 80cm x 152cm.

Cauminhngoc.
04/01/2014

(1). Hai tác phẩm có khổ tranh khiêm tốn ở vào giai đoạn sau khi trường Mỹ Thuật Đông Dương thành lập, hiên đang được người viết lưu giữ.



                     


                               

(2)  Tác phẩm của HS. Nguyên Phi Hoanh vẽ Quốc lộ số 1. Đoạn từ ngã tư Lương Phú nhìn về hướng Mỹ Tho.

                                      



                        



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét