Thứ Hai, 24 tháng 6, 2013

CHUYỆN MUA BÁN.


CHUYỆN MUA TRANH. ( Một số trao đổi trên Phố mua Bán ).

HS. Lê Thy. Đình làng. Sơn mài/gỗ mít. Kt: 90cm x 60cm. Năm vẽ: Trước năm 1950. Chữ ký góc trái dưới.


Nói về chuyện đi mua tác phẩm xưa của một họa gia có tên tuổi, hay được đánh giá là có giá trị nghệ thuật cao.  
  Biết nói như thế nào cho phải. Dễ thì cũng dễ đấy. Nhưng bảo khó thì nó cũng không sai.
  " Chơi đồ cổ là chơi trên sự thiếu hiểu biết của thiên hạ " một câu nói hơi  "shóc" không biết của ai mà tôi đã từng nghe. Nhưng muốn thực hiện được nó bạn phải là người có bản lãnh thực sự. Nếu không thì bạn sẽ ôm một mớ xà bần mà cứ tưởng là vàng thỏi.
   * Cái dễ cho ta là khi gặp phải người bán không biết gì về giá trị của nó. Trường hợp này. Vận may đã mỉm cười với bạn. Với điều kiện bạn phải am hiểu hơn họ. Nếu không  bạn sập bẫy...kẻ săn...nai.
   * Cái khó cho bạn. Đó là gặp phải người am hiểu rất rõ về giá trị đích thực về sản phẩm đang trong tay họ ( Điều này là chắc như bắp đá vì từ khi mua về họ đã có rất nhiều thời gian để tìm hiểu về nó ). Với những người như thế này. Cơ hội trúng mánh bạn nên loại bỏ...mà cần xem xét những yếu tố quan trọng về cái mình sắp mua. Đó là:
   - Người bán có uy tín hay không?
   - Giá cả như thế nào? Bạn không nên ảo tưởng về chuyện vớ bẫm khi người bán họ có quá trình kinh nghiệm trong nghề. Mà chỉ mong vào chuyện thương lượng làm sao để chuyện giảm giá có phần lợi cho mình thì hay hơn.
   - Sản phẩm mình muốn mua đúng là có giá trị thật không?
 Với những tác phẩm có tuổi cỡ 50, 60 năm còn dễ thở... Từ 70 năm trở lên " thất thập cổ lai hy ". Tranh cỡ này...chắc hẳn là phải hiếm và quí. ( Chỉ nói về những tác phẩm của những họa gia tên tuổi. Chớ nhầm lẫn giữa mỹ thuật và mỹ nghệ.... Hai cái nó cách xa nhau dữ lắm đó...)
   - Người bán có dám viết văn bản cam kết đảm bảo với bạn về sản phẩm của họ là chính bản không?
   - Hãy lắng nghe để hiểu biết về họ cũng như nghe họ tán về sản phẩm họ có trong tay. Hãy cố gắng nhận xét về giá trị đích thực có đúng là là như thế hay bị thêm gia vị vào quá nhiều. Nếu không am hiểu hơn thì nên lắng nghe. Không mua được cũng có một bài học kinh nghiệm cho bản thân.
   - Chớ coi thường họ...Sự hiểu biết của mỗi người đều có sở trường sở đoản...Nên tôn trong lẫn nhau là hơn cả. Hãy học từ họ những cái bạn chưa thấu đáo.
   - Có nhiều người bán rất là khó chịu...Họ chỉ tiếp bạn khi họ cảm thấy bạn có khả năng... Bạn hiểu biết thật sự cộng thêm sự ham thích...nhiệt tình. Hỏi dấm dớ...chắc là bạn sẽ nhìn thấy con cá vàng đang lửng lơ thản nhiên bơi... Bạn đi mua hột xoàn hay đi mua viên bi thủy tinh về cho con chơi vậy?
   - Cái tốt nhất nếu không đủ bản lãnh thì hãy tìm một chuyên gia có tính trung thực cao đi cùng cố vấn cho bạn.
   Cho nên muốn mua một tác phẩm nghệ thuật có tầm vóc thực sự. Trước hết bạn phải nắm vững về nó về mọi khía cạnh sản phẩm muốn mua. Còn giá cả nó là một chuyện khó chịu nhất... Khi muốn mua nên tham khảo trước về giá cả những sản phẩm cùng trang lứa trên thị trường so sánh thật kỹ về mọi mặt và tùy theo khả năng về tài chính cộng thêm sở thích của mình rồi quyết định tới hay dừng...Chuyện này đỡ mất thì giờ cho đôi bên.
   - Nếu đủ khả năng. Công thêm cái thích. Cứ mạnh dạn " Kỳ kèo bớt một thêm hai " không xong...quyết định ngay...Tránh cho chuyện hối tiếc có tiền vẫn đứng ngó nó treo trên tường nhà người khác.
   - Chớ nên ảo tưởng đánh đồng giá cả giữa tranh cũ của tác giả nổi tiếng với tranh cũ vớ vẩn hay tàm tạm.... Và cũng đừng quá ngạc nhiên khi thấy một trời cao so với vực thẳm suy nghĩ của mình xuất hiện giữa nhà khi họ báo giá.
   - Một tác phẩm nghệ thuật có tầm cỡ càng để lâu sẽ tăng thêm giá trị về kinh tế cũng như văn hoá. Thang bậc giá trị được tính theo cái giá người mua cuối cùng.
   Đôi lời trao đổi cùng quí vị trên Phố có thể là chưa tốt nhưng cũng mong đóng góp đôi chút cho vui cùng các bạn.
Thân mến
Cauminhngoc.


Chuyện mua tranh...( tiếp theo ).
      - Luôn luôn phải ghi nhớ trong đầu. " Mua lầm. Bán khó lầm...". Với những người bán có nhiều kinh nghiệm. Cơ hội được " bắt tận tay, day tận trán " những vật phẩm có giá trị lớn mà họ lưu giữ sẽ có diễn tiến hơi phức tạp. Họ thăm dò, tìm hiểu bạn từng chút. Họ đo " Tăng-xông " bạn xem như thế nào. Họ sợ mất công, đôi khi còn gặp cảnh bực mình vì đối tượng đòi mua không biết chút gì về giá trị của nó...cứ nghĩ rẻ mua chơi...Đừng buồn và trách họ khó...Nếu bạn có tư tưởng dấm dớ đó thì họ cũng nghĩ. Đâu có rảnh dữ dzậy...cả đống tiền của..mà tự dưng rước...về xem chơi cho vui à ???. Tiên trách kỷ hậu trách nhân. Các cụ xưa đã dặn rồi...không nhớ sao?
       Xin kể một câu chuyện đã từng xảy ra. Một Việt Kiều nọ muốn mua bức tranh con  mèo do Foujita vẽ trao tay tại chỗ cho người hâm mộ vào năm 1941 nhân cuộc triển lãm trao đổi văn hóa giữa Nhật và Đông Dương trưng bày tại Nhà Hát lớn Saigon. Bức này gốc là của cụ Vương hồng Sển. Theo lời kể. Khi ấy đã chịu khó xếp hàng và phải chìa ra một đồng vàng ( hay 10 đồng ) lúc đó để lấy con mèo về chơi. Không hiểu sao lại lọt vào tay nhà văn miền Nam chuyên viết truyên trinh thám kiêm mua bán cổ vật lão luyện này. 
      Không hẹn với người mua tại nhà mình mà lại hẹn gặp ở quán cà phê. Sau một chặp trao đổi hơn hai giờ đồng hồ. Vị nhà văn khả kính tuyên bố là mình không có bức tranh con mèo đó. Thế mới điên!!!  Khi mới nghe kể. Tôi cũng có ý trách vị nhà văn nọ về cách sử sự. Nhưng sau này...
   - ANH TA CHẲNG BIẾT CHÚT GÌ VỀ TRANH CẢ...CÓ ĐƯA CHO HẮN XEM HẮN CŨNG CHỈ NGHĨ LÀ GIẤY CHÙI MIỆNG THÔI !!! MÀ TRANH QUÍ...CÓ RẺ ĐÂU....NÓI KHÔNG CÓ CHO NÓ DZÌA CHO RỒI!
Vị nhà văn này đã nói như thế. 
     Cái tốt nhất là hãy suy nghĩ nghiêm cẩn vào. Đừng bao giờ nghĩ là mình khôn mà hãy nắm bắt giá trị cho thật đúng đắn. Số tiền bỏ ra lớn chứ không nhỏ. Một trò chơi máu thịt không cho phép nhầm lẫn...bông lơn...Muốn sở hữu quí vật giá trị lớn thì phải đánh đổi bằng một cái gì đó tương xứng. Không ai dại khôn trong chuyện này. Điều muốn nói. Ta có đủ bản lãnh hay không mà thôi.
Thân mến
Cauminhngoc  


     Hôm qua đọc vụ bức tranh con mèo của cụ V. anh viết, em hết ngủ luôn. Trời ơi, lẽ ra... haizz... mình chậm nhịp rồi.
                                   ( Sao y bản chánh của Đôn Phạm )

      Sao! Tiếc hả? Chậm là chậm làm sao? Muốn đến xúc hả? Có biết ngài nhà văn đó là ai không. Bạn bè thường gọi là NGỌC SƠN. Giới văn bút gọi ổng là PHI LONG tác giả của những bộ truyện " Con tàu máu ",  " Bàn tay máu "..v.v.. Những bộ truyện của ông hiện nay cũng rất hiếm trên thị trường sách cũ. Ổng cũng là bạn của cụ Vương nữa đấy. Tui xin kể bạn nghe một câu chuyện về ổng.
   Có một ngài nọ tìm đến tận nhà xin mua một món nghe nói là rất quí đang nằm trong tay cụ nhà văn này.
   Sau vài tuần trà cùng những lời trao đổi qua lại. Đương nhiên là vị khách có thời gian tha hồ ngắm nghía những món chưng bày trong sảnh đường. Chủ nhân ngôi nhà cũng đủ thời gian nắn gân vị khách quí.
    Đến khi vào vấn đề thì vị nhà văn khả kính của chúng ta nhẹ nhàng và rất ư là lịch sự phát biểu.
   - Dạ! Món đó giá trị nó cao lắm! Nếu ngài muốn xem xin vui lòng đặt cọc cho bỉ nhân 20,000 USD. Rồi bỉ nhân sẽ đem ra cung thỉnh ngài thưỡng lãm. Nếu ngài không vừa lòng thì bỉ nhân sẽ hoàn tiền lại đủ không mất một tẹo.
   Vị khách chưng hửng! Đi xem đồ cụ bán mà phải đặt cọc sao? Tôi đã mua đâu mà rộn!?
    Thế là vị khách ra về. Không hiểu vì tức khí hay vì không mang theo tiền và không lần quay trở lại.  Sự việc xảy ra chỉ có đôi bên. Ấy thế mà lại được phát tán ra giang hồ rất ư là chóng vánh. Chưa rõ do bên nào xì ra nhưng lời đồn thì mang nội dung cay cú như sau : 
     - Đồ lão già cà chớn...Đồ hâm...cám lợn... Bán không bán thì thôi để mà ôm...Tự nhiên bắt người ta đặt cọc...mới cho coi...Khùng nặng rồi... 
     Đại để câu chuyện nó là như thế. Bạn Đôn Phạm nghĩ sao? Còn tiếc hông? Nghe đồn để bắt được con Mèo đó vị nhà văn của chúng ta cũng hao tâm tổn lực lắm lắm. Biết tánh cụ Sển chưa? Đâu phải có tiền lại xìa ra là cụ bán ngay cho đâu. Lai tỉnh bới ....Đôn Phạm...
   Thôi!  Xem con " Mèo " cũng của Foujita nằm ngoài bìa cuốn cataloge cuộc triển lãm vào năm 1941. Dù chỉ là in. Nhưng chữ ký thì chính xác là thủ bút của Foujita cũng vào năm 1941 đấy. Xem cho đỡ ghiền he! 

Ghi chú: Chữ ký trên tác phẩm nằm nơi khuỷu hai chân sau. Chữ ký thật cùng năm bằng mực bút máy không rõ đen hay xanh nay đã phai màu nằm phía dưới đầu con mèo nằm ngủ.

Thân mến
Cauminhngoc.





Tường thuật trực tiếp buổi phân bua về chuyện muốn coi tranh phải đặt cọc...
     Cứ duỗi ra mà nói. Thật khó phân giải như thế nào. Ai cũng ôm cứng cái lý của mình. " Sư nói sư phải, Vãi nói vãi hay ". Cho nên cứ nghe hai bên họ phân giải xong sẽ tính.
Bên bán:
     Kính thưa quí vị. Những nhà sưu tập cổ vật. Những nhà nghiên cứu phê bình. 
Kính thưa...( Xin phép cắt bớt...)
   Trước hết tôi xin hỏi rằng. Nếu quí vị có một món cổ vật quí hiếm qui ra giá trị kim tiền cũng có thể là một tài sản kha khá trong tay. Thế thì có người ngỏ ý muốn mua quí vị có sẵn lòng mang ngay ra cho họ xem không? ( Có tiếng xì xào...)
  Tôi xin mạn phép hỏi tiếp.
- Quí vị có chắc là họ có đủ nguồn tài chánh để mua không?
- Quí vị có biết chắc rằng họ có đủ khả năng, trình độ thẩm định, đánh giá món hàng này là gì không?
- Quí vị có đo được thiện chí của họ về chuyện mua bán như thế nào chưa. Hay họ chỉ muốn đến xem cho biết. Đó chưa kể đôi khi cho xem có người phát biểu lung tung, nói năng ấm ớ thêm tức.
- Giả xử trong lúc xem họ lỡ tay đánh rớt bể hoặc hư hỏng họ phải đền như thế nào? Cho nên cái chuyện này nó tế nhị lắm. Họ có buồn cũng chịu. Dứt khoát phải đo " Tăng xông " cái đã. Nếu họ chịu đặt cọc...Quyết định này được xem như là thiện chí. Câu chuyện chả có gì phải nói cho đôi bên. Mấy người đi trước đã dặn dậy mà. Xin hết!!!
    ( Không ai vỗ tay ta...? )
Bên mua.
 - Quái dị... Quái đản...1?
    Xin cắt...miễn tường thuật tiếp vì những lời lẽ quá khích khó nghe, mang nặng tính cay cú, dè bỉu ... Cúp...Cúp máy.

Người tường thuật tại chỗ.
Cauminhngoc




Xin trao đổi với quí vị một chút về chuyện tại sao có một số người lại khoái mua tranh cũ hơn là đi mua tranh mới cho dù biết chắc rằng mua tranh mới an toàn mà rẻ nữa không hề bị gạt.
1 - Màu sơn cũ và mới cho ta cảm xúc khác nhau.
2 - Ta có thể trúng đậm, tranh mới không hề.
3 - Không mất công chờ mà chỉ chồng thêm tuổi lên. Giá trị chỉ Thiên.
4 - Vớ đúng của hiếm! Niềm vui nói sao ta? Mới làm sao có đặng!
5 - Đã có trường hợp cục đất thó để trong nhà bỗng thành cục vàng SJC. Của mới làm sao có.
6 - Không khí có khác biệt giữa phòng tranh treo tuyền cũ, treo tuyền mới. Theo bạn? 
--------------------------------
Chia sẻ nhiêu thôi! Tự tìm thêm xem...Dzui lắm.
Thân mến
Cauminhngoc




       Rất cảm ơn bạn đã phân định. Đúng sai? Còn tùy. Tôi chỉ đồng ý với bạn một phần nào thôi. Nếu mà bàn về cái dzụ này nó lê thê lắm, mỗi người mỗi ý. Tui gặp goài hà.
       Chắc chắn rồi. Đương nhiên phải là những cái hay cái đẹp đích thực, tự thân nó đã toát lên được cái giá trị của nó chứ. Phải hiểu là cái cũ có tầm vóc chứ đâu phải cứ cũ là có giá trị đâu. Ở đây tôi muốn chia sẻ với những người khoái mua tranh cũ biết gạn đục khơi trong cơ. Không phải là sự lựa chọn khi đi mua tranh hay khuyên bảo cách chơi. Bạn đọc kỹ lại phần tôi viết xem có đúng thế không nhé! 
Nếu bạn gặp một tấm tranh của Trịnh Tam Tuyệt  ( Biệt danh của Trịnh Mãn Thanh, thày dạy vẽ cho vợ ông Tưởng giới Thạch ) ổng vẽ bụi trúc to oành cỡ Đại trung đường đề tặng cho TT quá vãng Ngô đình Diệm cỡ năm 1958, 59 gì đó lâu quá rồi quên mất tiêu, vì biết ngài TT này rất khoái trúc ( Hổng tin thì cứ tìm giấy tờ hành chánh vào giai đoạn này coi. Con dấu nào cũng có bụi trúc hết trọi ) vào dịp ổng qua VN triển lãm tranh giao lưu Văn hóa chẳng lẽ bức tranh này không có giá trị vì là quà tặng sao?  
     Đương nhiên! Bạn muốn chơi tranh cũ ( Chơi trên sự thiếu hiểu biết của thiên hạ.) thì bạn phải có kiến thức như thế nào chứ. Đó là điều khẳng định. ( Coi chừng mình lại thiếu hiểu biết hơn thiên hạ thì...chỉ có chết! ). Cùi bắp, ABC khoanh, ham lợi...lọt giếng...thế thôi...Mà có lọt đìa mới sáng mắt được. Ai biểu " nghèo " mà ham... Chết ráng chịu... than chi...?
Thôi heng!
Thân mến


     Một vài bạn có ghé hỏi tôi về chuyện tranh pháo. Đa phần là muốn sở hữu những tác phẩm có giá trị lớn về mọi mặt trong lãnh vực nghệ thuật. Quả thật tôi cũng không biết trả lời sao cho phải. Tôi lập lại lời của người bạn. " Càng ít người biết càng dễ mua! Càng nhiều người biết càng khó mua!?". Sự là thế! Nhiều người chú ý! Biết nó! Bạn nghĩ sao nếu bạn chưa biết nó rõ bằng thiên hạ? Bạn biết chưa tới! Cái gì sẽ xảy ra? Chỉ có Bụt nặn bằng đất mới vô tư. Còn Thổ Địa nghe nói rất thích ăn oản.... Bạn cũng nên suy nghĩ là mình mua cái gì? Của ai? Cho đỡ mất thì giờ...Tôi thấy ý kiến của bạn Mạnh Thắng rất hay. Nay xin đăng lại để mọi người tham khảo. 



" Vào đây thấy các bác Buôn chuyên thấy phức tạp phết chuyên mua tranh ! Theo tôi mà tôi đang tập tênh chơi như sau : 
1.không mua tranh cũ dù của ai nôi tiếng nêu không thì giá rất hợp lý thì mới xem xét !
2. Mua tranh để chơi cho mình phải tự mình nhìn thấy thinh thích , càng nhìn lâu lại thấy hay hay là xem xét
3. Không cân quan tâm tác giả tiếng tăm vì Minh không có tiên để mua mà nên ngắm để tự rút ra bức tranh người khác vẽ có nét gì khác mà vẫn thấy hay hay là xem xét
4. Nên mua của ông nào đang vẽ mình chứng kiến là ăn chắc không có vẽ lại , bức càng to càng tốt như dài 3-4 m thì bọn chép tranh khó mà chép !"
 (Sao y bản chính của bạn Mạnh Thắng)




Thứ Bảy, 8 tháng 6, 2013

HS. HIẾU ĐỆ VÀ TÁC PHẨM SƠN MÀI " HÁN THỌ ĐÌNH HẦU ".

         Họa sĩ Hiếu Đệ. Tên thật Nguyễn tánh Đệ. Sinh ngày 01/8/1935. tại PhanThiết, tỉnh Bình Thuận. Mất ngày 16/4/2009 tại Hollan, tiểu bang Michigan Hoa Kỳ. Học tập 5 năm (1975-1980). Đi diện HO đến Hoa Kỳ năm 1989.


.
Hình A.
Quan Công. Hán Thọ Đình Hầu 漢受庭侯. Sơn mài/ván ép. Cỡ 50cm x 80cm. Không thấy ghi tác giả.
( Theo như lời học giả Phạm hoàng Quân thì bức tranh này do Họa sĩ Hiếu Đệ ( 1935-2009). Vẽ vào khoảng những năm 1980-1989. Trước khi ông xuất cảnh đi định cư tại Hoa Kỳ).

    Quan Công, Quan Vũ, Quan Vân Trường, Mỹ nhiêm Công..v.v.. là tên gọi cho một nhân vật lẫy lừng thời Tam Quốc bên Tàu. Nhân vật được hai nhà phê bình Thánh Thán và Mao tôn Cương đánh giá rất cao trong bộ Tam Quốc chí của tác giả La quán Trung. Một nhân vật Võ quan duy nhất được nhiều người Trung Quốc và một số dân chúng ở những nước lân bang kính trọng cho dựng miếu để thờ phụng. Không hiểu chuyện thờ cúng này bắt nguồn từ việc hiển thánh ở núi Ngọc Tuyền, khi ông cùng hai đệ tử hiện lên đòi trả thủ cấp và đã được nhà sư Phổ Tĩnh giáo hóa mà thành thần hay do lý lẽ nào khác và tục thờ cúng này phát nguồn tự khi nào cũng chưa ai nắm rõ ra sao ! Chỉ có một điều dễ dàng nhận thấy là. Bất cứ ở một đất nước nào trên trái đất này, nếu có người Hoa sinh sống lâu đời đều thấy có hiện tượng lập miếu thờ Quan Công. Có một chuyện theo khẩu truyền về tục thờ cúng nhân vật Quan Công này, chỉ nghe nói mà thuật lại chứ chưa hề được đọc quyển sách hay bài báo nào viết về chuyện này nên chưa rõ thực hư ra sao. Nhưng cũng xin thuật lại để tham khảo.
 
       Vào thời Khang Hy. Khi đó phong trào phản Thanh phục Minh xảy ra rất mạnh và khắp nơi. Khiến cho ông vua này phải ra tay đánh dẹp, dẫn đến chuyện phong trào kháng Thanh phục Minh phải rút vào hoạt động ngầm.
      Tương truyền rằng việc thờ Quan Công đã có từ lâu nhưng trong phạm vi hạn hẹp. Do hoạt động trốn tránh không công khai và có nhu cầu nhận dạng người cùng chí hướng, những nhóm phản Thanh phục Minh đã lợi dụng việc thờ cúng Quan Công và lấy hình ảnh Quan Công thờ trong nhà làm mật hiệu nhận nhau. Nhưng rồi chuyện lợi dụng này bị bại lộ. Khang Hy biết, nhưng không thể dẹp bỏ vì va chạm đến tín ngưỡng trong dân chúng. Vua Khang Hy tương kế tựu kế ra lịnh cho Sử Quán nghiên cứu viết sách ca ngợi, phong thần cho Quan Công, đồng thời cho lập miếu thờ phụng khắp nơi. Một cách lộng giả thành chân làm xáo trộn mật hiệu của nhóm chống đối...v..v... Ở Việt Nam chúng ta cũng có nhiều nơi thờ  cúng ba thày trò Quan Công. Đa số là người Hoa, cũng có một số người Việt đến viếng vào những dịp lễ Tết. Nhưng với tên gọi là Thờ Ông chứ không gọi tên.


Câu chuyện về bức tranh.

          Vào khoảng giữa năm 2012. Nhân dịp người bạn thân Phạm hoàng Quân. Một họa sĩ, thư pháp gia và chuyên nghiên cứu về Hán Nôm ghé nhà chơi. Khi tôi giới thiệu với ông về tấm sơn mài vẽ ba thày trò Quan Công treo trên  tường và tỏ ý tiếc cho tác phẩm vẽ rất đẹp, rất có thần như vậy mà không rõ tác giả là ai. 
          Ông Phạm hoàng Quân cho biết đây là phong cách của họa sĩ Hiếu Đệ khó mà lầm lẫn vì ông đã từng chứng kiến những tác phẩm vẽ rất gần gũi như thế này tại nhà họa sĩ Hiếu Đệ. Vào khoảng những năm 1985 đến 1989 trước khi họa sĩ Hiếu Đệ xuất cảnh. Ông đã từng cùng họa sĩ Văn Y rất thường xuyên đến nhà họa sĩ Hiếu Đệ để cùng với nhau " nhậu " giải buồn. Ông Phạm hoàng Quân cũng nói thêm là từ lúc đi học tập cải tạo về  năm 1980 cho tới lúc đi Mỹ năm 1989. Trong khoảng thời gian gần chục năm khi còn ở Việt Nam. Họa sĩ Hiếu Đệ đã có thực hiện một loạt tranh sơn mài về đề tài lịch sử, anh hùng. 


     Hiếu Đệ. Vua Quang Trung và Ban Tham Mưu. Phác thảo.Mực nho trên giấy dày. Khổ giấy: 60cm x 90cm. Có thủ bút của HS. Hiếu Đệ viết bằng bút bi ở góc phải dưới.

          Riêng bản thân tôi cũng sống trong giai đoạn giao thời sau 1975 đã chứng kiến cảnh các họa sĩ miền Nam lúc đó hầu hết đã chuyển qua vẽ lụa và làm tranh sơn mài để kiếm sống. Vì có máu mê tôi học làm sơn mài nơi nhà của HS Đào Mùi bên Thị Nghè ( Sau đổi tên thành Đào Nguyên. Một tay vẽ lụa nhanh đẹp rất được ưa chuộng vào thời kỳ này…). Sau một thời gian làm tại nhà vừa làm sơn mài và vẽ lụa. HS.Đào Mùi cho phát triển thêm nhóm sơn mài nên xưởng chuyển về khu vườn khá rộng ở nhà HS Mai văn Tố tại khu vực trại Đồng Tiến thuộc đường Nguyễn Trãi Quận I, phía sau chùa Lâm Tế. Khi thì vẽ lụa lúc làm sơn mài rất vui… Nên có thường gặp một số họa sĩ  như: Cù Nguyễn, Hồ hữu Thủ, Nguyễn Lâm, Hồ hoàng Đài, Mai văn Tố, Đỗ quang Em, Lâm xuân Hùng…v..v…Cớ sự là các ngài họa sĩ Trẻ và một số HS độc lập như Lê Lai, Lê Vượng, Hiếu Đệ.. v..v.. thất nghiệp. Chả có ma nào mướn các cụ làm…Đói đầu gối bò…Phải làm cái gì để mà sống chứ… Nó trở thành một phong trào tự phát rất rầm rộ. Các vị họa sĩ thất thời, tất thất nghiệp đã thi nhau mua vóc, lụa về vẽ. Với mục đích rất cao cả là kiếm miếng cơm để sống. Vì có lòng tự trọng. Giấy rách vẫn giữ lấy lề nên các tác phẩm của họ vẫn có chất lượng, mang tính nghệ thuật rất cao. Bằng chứng là khách nước ngoài và Việt Kiều cùng với những người thuộc diện HO xuất cảnh mang đi ra nước ngoài làm quà hay bán lại cho những người VN xa quê hương đã lâu để kiếm chút vốn lận lưng. Ở đời cái chuyện " mật đâu ruồi đó " là lẽ thường...Cung nhiều cầu ít... bão hòa thị trường. Cuối cùng phong trào này cũng chẳng đi đến đâu vì những lý do khách quan cũng như chủ quan.  Đã thế bọn làm ăn chụp giựt, trí trá của các thợ tay ngang hiệp sức cùng những họa sĩ non tay nghề mà muốn hốt bạo đã làm ảnh hưởng nặng nề đến phong trào này dẫn đến sự chết yểu sau năm 1990.
         Giòng chữ Hán hơi mờ trên góc phải trong tấm sơn mài là chữ “ HÁN THỌ ĐÌNH HẦU ” (漢受庭侯) . Chức này do Tào Tháo phong cho Quan Công khi ông về hàng Tào.
    Ông Phạm hoàng Quân nhà nghiên cứu Hán Nôm kiêm thư pháp gia đã quan sát rất kỹ và khẳng định tấm tranh sơn mài vẽ ba thày trò Quan Công này 100% do Hiếu Đệ thực hiện vì đã từng chính mắt thấy những tác phẩm tương tự như vậy do HS Hiếu Đệ thực hiện để tại nhà họa sĩ.
         Với một người rất cẩn trọng trong lời ăn tiếng nói. Tôi tin vào lời ông Quân là sự thật. Với lại nhìn vào phần kỹ thuật, phong cách của tấm sơn mài thì người thực hiện được như nó phải là hạng họa sĩ cao thủ thứ thiệt trong làng sơn mài của Việt Nam chứ không thể ai khác. Càng không thể do các xưởng Cholon làm. Ta hãy quan sát nghệ thuật mài để lại nơi nét mặt của ba thày trò Quan Công cùng kỹ thuật sử dụng vàng bạc và các chất liệu khác trong tranh. Tất cả cho ta thấy một sự phối hợp khéo léo hợp lý, cẩn trọng, tinh tế đến từng phân vuông trên mặt tranh. Không phải ai cũng có thể thực hiện được như vậy. 
          Dựa vào lời xác nhận của người có uy tín cộng với chất lượng mỹ thuật có đẳng cấp. Chuyện họa sĩ Hiếu Đệ vẽ tấm Quan Công này là rất có cơ sở. 
          Có một điều quan trọng cần biết về chuyện tại sao không có chữ ký tác giả. Thông thường thì loại tranh thờ rất ít họa sĩ nào chịu ký tên. Tránh chuyện người ta thờ cả tên của mình. Đó cũng là thói quen trong chuyện vẽ tranh thờ của các họa sĩ Miền Nam.

        Ta quan sát kỹ những đường nét vẽ cũng như nghệ thuật mài bóc lớp sơn phủ cùng kỹ thuật khi làm sơn mài, cùng cách phối màu, sử dụng vàng bạc, tạo lên sự sinh động cho từng chi tiết trong tác phẩm. Ta có thể khẳng định đây là một tác phẩm nghệ thuật và cũng phải là tác phẩm duy nhất mới có sự đầu tư có tâm hồn vào những chi tiết phức tạp như vậy. Không thể là hàng mỹ nghệ làm hàng loạt.



Hình 01.   Gương mặt ba thày trò Quan Công.


         Tác giả cho ta thấy được ba gương mặt ở ba tính cách khác nhau.
  • Quan Công với mặt đỏ au, mắt xếch, râu năm chòm cho ta thấy một gương mặt phương phi toát lên cái khí phách hào hùng của bậc đại quân tử..
  • Quan Bình. với khuôn mặt trắng " Bạch diện " nho nhã, hiền hòa bản chất của văn nhân....
  • Chu Thương với mặt lọ chảo, râu hùm trông rất dữ tợn, mang tính chất nóng nảy bặm trợn của một người võ biền

                    
Hình 02. Gương mặt Quan Công và những nơi khác. Với kỹ thuật và nghệ thuật mài điêu luyện bóc đi lớp sơn phủ trên bề mặt ở nhiều cấp độ dày mỏng khác nhau để ửng lộ lớp sơn phía dưới lên với nhiều sắc độ để tạo khối.  




                     Hình 03.    Gương mặt Quan Bình.


Hình 04. Gương mặt Chu Thương. 

   
          Quan sát kỹ những chỗ mài lấy mất đi lớp sơn phủ một cách lam nham không đều. Nhờ thế mà nó lại tạo ra những sự hòa sắc rất tự nhiên, chuyển biến ra nhiều gam màu cùng gốc, cũng như hiệu ứng về tạo khối cho sự vật một cách rất lôi cuốn. Khuôn mặt và bờ vai là hai mảng tối, Tác giả đã đưa cái khăn choàng màu xanh vào để tách chúng ra rất điệu nghệ, tuyệt hay và làm cho ta cảm nhận được độ mềm mại của tấm vải qua cách mài lấy đi cũng như giữ lại những lớp sơn.

     Có ba khuôn mặt trong tác phẩm này. Gương mặt của Chu Thương có nhiều góc cạnh nhất. Hãy quan sát kỹ khuôn mặt đó. Với nghệ thuật mài điêu luyện cứ tưởng như là vẽ đã để lại trên lớp da mặt rất nhiều sắc độ khác nhau ở từng nơi, từng chỗ, hòa cùng một số đường vạch vét trũng của vật cứng trên mặt vóc để tạo hình. Cái tinh tế của họa sĩ Hiếu Đệ ở đây là việc ông đã mài lấy đi lớp sơn phủ để lộ ra màu trắng ở bên dưới để tạo điểm nhấn cho khuôn mặt. Một vệt trắng dọc trên sống mũi và hai điểm trắng khác mô tả cho sự bắt sáng của ánh mắt. Những mảng trắng này đã khiến cho cái mũi và cặp mắt nổi bật hẳn lên, bóc tách chi tiết khuôn mặt ra từng phần rất rõ ràng và nó cũng là điểm tương phản với cái cằm có bộ râu đen rậm ẩn chứa vành môi dưới. Một sắc tối trong tối rất linh hoạt.

Tóm lại những chi tiết dù nhỏ hay lớn của từng phần đã được tác giả thực hiện một cách linh hoạt, rồi cho chúng hỗ trợ và kết hợp với nhau để tạo khối, làm cho khuôn mặt trở nên sống động hẳn lên. 
       Có thể nói cách mài cẩn trọng và vi diệu của tác giả để đặc tả sự vật đến từng chi tiết như trên không phải họa sĩ nào cũng có thể thực hiện được một cách nghệ thuật như vậy.

     Một cái tuyệt của họa sĩ Hiếu Đệ trong tác phầm này là cách ông sử dụng màu xanh lơ. Có thể xem là màu chủ trong tác phẩm này. Ông đã khéo léo dùng nó làm đối trọng với màu nâu tối phông nền và lợi dụng sắc sáng nhẹ, dịu mát của nó để giảm bớt ánh sắc rực, nặng nề của vàng bạc hiển lộ dưới lớp sơn phủ bị mài mất rất điệu nghệ cũng như đan chen nó vào để tạo sự nhấn tách giữa các vật thể không cho chúng lẫn vào nhau thật tinh diệu. Họa sĩ Hiếu Đệ đã sử dụng màu xanh lơ để hòa sắc rất bản lãnh qua cách giữ lại lớp sơn phủ dày hay mỏng để tạo sự phong phú về sắc độ cùng họ cho tác phẩm. Thiếu nó, không hiểu tác phẩm này sẽ ra sao.  ( Hình A ).     



                        Hình 05.       Chân ghế bọc da Hổ ( góc phải dưới cùng ).


           Ta thấy rất rõ là lớp sơn phủ được mài lấy đi từng phần để lộ lớp bạc quỳ được dán phủ trên mảng sơn màu xanh của cái áo và màu trắng trên miếng da Hổ tạo cho người thưởng ngoạn thấy màu sắc đa dạng, phong phú và hấp dẫn.


                      Hình 06.       Ngọc đới những chi tiết trên áo.( phần bụng Quan Công ).


                     Hình 07.          Chi tiết chung quanh cuốn sách trên tay Quan Công.



           Quan sát kỹ từng chi tiết nhỏ của từng vật thể và những chỗ để lộ lớp bạc để đặc tả chiếc áo giáp óng ánh rất tuyệt. ( xem hình 01; 02; 05; 06; 07; 08 ).

                           Hình 08.Chân phải và miếng da bọc màu vàng ở đầu gối Quan Công.
                     
       Lớp sơn phủ trên miếng bạc được mài lấy đi nhiều hay ít tạo ra sự dày, mỏng tùy nơi, tùy chỗ để tạo ra nhiều sắc độ rất đẹp.



      Hình 09. Chi tiết trên Thanh Long đao. Nhờ những lớp mài bị đứt có chủ ý làm cho Thanh Long Đao thêm phần sinh động và lưỡi đao sáng loáng thể hiện sự sắc bén.

        Đối với sơn mài nghệ thuật, khi bước vào thời điểm mài những lớp sau cùng trước khi đánh bóng, các họa sĩ rất cẩn trọng ở giai đoạn này. Nó là khoảnh khắc biểu lộ đẳng cấp và tài năng của người họa sĩ. Ở sơn mài không như sơn dầu là có thể vẽ thêm nếu cần thiết phải bổ sung, cho nên lúc mài tác giả phải để hết tâm trí dõi theo từng chi tiết nhỏ dưới tờ giấy nhám sũng nước, những cái vuốt thật nhẹ nhàng như mơn trên mặt vóc, từ từ moi từng chút sơn nằm bên trên mỏng đi, lộ dần ra những lớp dưới, rồi dựa vào đó mà lấy làm chi tiết cho việc tạo hình, Đôi lúc phải dừng tay, đứng xa ngắm nghía, chiêm nghiệm xem chỗ nào cần phải dừng chỗ nào cần phải mài thêm. Có thể nói là lúc này người họa sĩ đang vẽ tác phẩm của mình bằng giấy nhám. Nói thế cũng không ngoa vì lúc mài sẽ làm mòn lớp sơn bên trên, tạo ra những chỗ mỏng chỗ dày, chỗ đứt hẳn lẫn lộn, trùng lấp bên nhau để lộ những lớp vẽ lần trước bên dưới cho ra rất nhiều sắc độ khác nhau rất thú vị. Ta cứ chịu khó quan sát những chi tiết trên thật kỹ, từng phân vuông nhỏ trên mặt tác phẩm sẽ cho ta thấy rất nhiều điều bất ngờ không thể tạo lại lần thứ hai. Đó cũng là đặc điểm của sơn mài truyền thống Việt Nam và cũng không nên nhầm lẫn với loại vẽ phủ sơn polysai của Nhật hay của Trung Quốc. 

Cauminhngoc 
Tháng 6/2013      


Thư pháp của Phạm Hoàng Quân (Vô gia cư sĩ). 





Thứ Sáu, 7 tháng 6, 2013

HS.NGUYỄN PHI HOANH và ĐƯỜNG ĐI LƯƠNG PHÚ-MỸ THO (1937).

HỌA SĨ NGUYỄN PHI HOANH  

           VẼ " ĐƯỜNG ĐI LƯƠNG PHÚ - MỸ THO "  NĂM 1937.
         
( Hình ảnh Quốc lộ 1. Đoạn từ Lương Phú nhìn về Mỹ Tho vào năm 1937 ).


                    Hình 01.    Nguyễn phi Hoanh. Đường đi Lương Phú-Mỹ Tho.( Quốc lộ 1 năm 1937)
                   Sơn dầu/bố. Kích thước 60cm x 90cm. Vẽ năm 1937. Chữ ký đáy góc phải.


          Bất cứ cái gì trên cõi đời này chúng cũng có thể giúp ích cho ta nếu biết sử dụng khai thác nó đúng chỗ. Cho nên các bức tranh cũng không thế nào vượt qua khỏi những qui luật đó. Nó cũng là một nhịp cầu giúp ta mở rộng quan hệ với mọi người. Nhất là những tác phẩm có giá trị lớn, ai cũng muốn một lần thưởng ngoạn. Cái lợi như vậy, cái hại cũng đến ngay nếu ta không biết chọn lọc.
      Trong số tranh tôi may mắn mua và đang giữ, có một tấm của họa sĩ Nguyễn phi Hoanh [1905-2001]. Ông là họa sĩ chuyên vẽ tranh phong cảnh. Một trong số những họa sĩ nổi tiếng hàng đầu vào giai đoạn khởi nguyên của nền Mỹ thuật theo trường phái Tây Phương tại VN. Từng đoạt giải nhất trong một kỳ triển lãm khi còn đang theo học ở Pháp. Sau này khi đi tập kết, ông có một thời gian dạy hội họa tại Hà Nội và là đại biểu Quốc Hội khóa 1 của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Ông có viết hai quyển sách phê bình về Mỹ thuật VN và nền Mỹ thuật Thế Giới.


                   
        Hình 02. Trang bìa và trong cuốn " Lược sử Mỹ thuật Việt Nam ". Tác giả Nguyễn phi Hoanh.


              Hình 03. Trang bìa cuốn " Một số nền Mỹ thuật Thế giới ". Tác giả Nguyễn phi Hoanh. 

        Tôi được hân hạnh biết ông Hoanh qua sự giới thiệu của Giáo Sư Nguyễn văn Y.  Trước 1975 ông Y dạy ở Đại Học Văn Khoa Saigon, đồng thời cũng là  chuyên gia sưu tầm sách báo xưa cũ trong nước qua các thời kỳ, đã thế lại còn đính thêm cái thú sưu tập tranh, đồ gốm sứ của " Ta " lẫn " Tàu " nữa. Sở hữu rất nhiều loại sách quí hiếm về Hán Nôm cũng như thời Pháp thuộc (L'Indochine), còn về mảng tranh Đông Dương, đồ gốm sứ cổ thì không rõ lắm vì sự kín kẽ như " ông bình vôi " của ông. Giáo sư Y có chiêu thức rất độc trong lãnh vực sưu tầm. Với cái nhãn hiệu Giáo sư chuyên nghiên cứu và viết. Do đó rất cần nhiều tư liệu về người được nói đến hoặc giả những gì có liên quan. Ông đã lần đến từng nhà, gặp gỡ từng người trong giới văn nhân, học thuật và nghiên cứu có tên tuổi trong làng, để đề nghị mua lại những quyển sách quí, hoặc xin những thủ bút về làm nguồn. Nhìn việc làm cả ông mới thấy là người tinh tế, nhìn xa thấy trước. Trong giới mua bán sách cũ từ bé chí to vào giai đoạn này, khi nhắc đến tên “ Ông Y xe đạp” ai cũng biết. Vì ông có thói quen xử dụng xe đạp rẻo khắp thành phố. Đôi khi còn gặp ông ở một số tỉnh lân cận cũng vẫn tà tà trên yên chiếc xe đạp sườn ngang, phía trước ghi đông có cái giỏ đựng một túi vải, thêm cái áo mưa khi mùa mưa đến. 
       Có lần ông Y gặp tôi nói rằng tác giả của bức tranh “ Hai con bò kéo xe ”, ( tôi thường gọi bức tranh của ông Hoanh cái tên như vậy ) muốn đến nhà để được xem lại tác phẩm của mình sau gần năm mươi năm lưu lạc ( Khoảng năm 1985 chi đó ). Nhất trí thôi! Có mất gì đâu? Biết thêm một người càng tốt chứ sao. Huống chi đây lại là tác giả của một bức tranh đẹp, có giá trị cao, rất quí hiếm! Ông là có địa vị trong xã hội cũng như tuổi tác. Gặp để hiểu biết thêm về tác phẩm của ông, phát hiện thêm điều gì mới lạ thì sao? Hiểu theo ý tôi là như vậy!
      Vào một buổi sáng. Hai ông Y và Hoanh đến nhà tôi chơi. Lúc này tôi còn ở đường Nguyễn thiện Thuật trong con hẻm 16/55. thuộc Quận 3.Saigon. Nhìn bức tranh một lúc như hồi ức. Ông cho biết là đã thực hiện tấm tranh này sau khi ở Pháp về. 
     ( Ông bỏ Pháp trốn về VN vì cái tội đã dám hoạt động chống lại chính quyền sở tại ngay trên đất của họ. Chính vì sự chơi trèo này đã làm họ không vui nên đã tìm cách gởi ông vào một nơi kín đáo để dạy dỗ cho mềm cái đầu. Biết vậy, không muốn bị chơi khăm và bị nỗi cô đơn hành hạ sau song sắt nên đã tìm cách rời khỏi cái chốn phồn hoa đô hội rực sáng nền văn minh nhân loại. Nơi mà ông kỳ vọng dựa vào nó để có một tương lai sáng lạn. Hẩm hiu thay! chính cái nơi đó lại đang có mưu đồ hãm hại mình. Đành bỏ dở việc học hành “ phắng ” về nơi chôn nhau cắt rốn! Ông đã không đạt được ý nguyện sau này thành tài quay về giúp nước. Ông đã phải bỏ ngang vì thái độ yêu nước của mình. Đã có máu cứng đầu nên ở ngay trên đất mẹ tại Saigòn chứ chả đâu xa, ông cũng không yên thân với bọn mật thám, bọn họ thích cho cái còng số tám vào đôi tay tài hoa của ông, để ông bớt quậy! Thế là ông lại phải tháo về Bến Tre. Nơi đây! Tại mảnh đất này, cha mẹ đã chôn cái nhau khi ông mới ra đời! cũng như nó từng cưu mang lúc còn bé thơ! Có lúc ông đã phải rời xa nó một thời gian dài để tầm học. Nay vì an nguy bản thân, ông quay về chốn cũ. Hy vọng nơi thôn làng này che chở giúp ông thoát khỏi cái mõm đánh hơi của những con chó săn....
Những ngày nơi đây thật nhàn nhã, thật rảnh rang và quá thảnh thơi, êm ả! Nhưng với cái tuổi trai tráng, sức dài vai rộng, làm sao ông lại có thể ngồi yên. Đã vậy máu nhà nghề trỗi dậy, ông mang đồ nghề, đi loanh quanh những vùng phụ cận, tìm những nơi hữu tình xinh đẹp của quê hương vẽ để giải buồn! Trong đó có Mỹ Tho, nơi ông đã có thời gian theo học thuở còn thơ! Chính tại nơi này mà ông đã có những mảng màu sống động, ngọt ngào, sáng lạn ấm áp của hội họa cũng là nhờ vào những nét đan thanh của xứ sở, những hình ảnh đặc thù của địa phương. Ông đã để lại cho thế hệ mai sau thấy được những gì một thời đã xảy ra, đã ăn sâu vào tiềm thức của ông ). 
        
       Không thấy ông nhắc đến chuyện đặt tên cho bức tranh là gì! Chỉ nghe ông nói “  Tôi vẽ bức tranh này trên con đường số 1, đoạn từ Lương Phú nhìn về Mỹ Tho! Tấm này tôi tặng cho BS Bổn mà!” [ Ngay chóc! Tôi mua tấm tranh này ở một căn biệt thự khá bề thế đường Phạm ngọc Thạch. Quận 1 Saigon.  Trong lúc chọn lựa để  mua tôi có thấy một số vật dụng bày trong phòng có ghi chữ Bổn. Lúc đó tôi cũng chả để ý, nhưng sau này nghe ông Hoanh nói mới biết đó là nhà của BS Bổn cũng là bạn của ông. ]

        Tôi mua được bức này có lẽ cũng là một cái duyên. Năm 1985 lúc còn bán sách ở quầy số 64 tại chợ sách cũ đường Đặng thị Nhu. Quận I. Saigon. Một người khách ngang lứa muốn mua cuốn tự điển " Webster's New Worlds " cũ. Loại này lúc bình thường không thiếu. Tự nhiên  dạo này khá khan trên thị trường. Tôi hẹn tìm được sẽ đem đến tận nhà... Một hành cử hiếm hoi cho chuyện chỉ có một quyển sách không là bao nhiêu tiền mà phải mang giao đến tận nhà. Không hiểu sao lúc đó tôi lại hứa là sẽ đáp ứng. Chính vì điều này mà tôi cho nó là cái duyên. Nếu không có cuốn tự điển bắc cầu thì làm sao tôi có điều kiện vào nhà BS Bổn mà gặp bức tranh để mà mua? Theo chân người chủ nhân. Tôi bước vào một căn sảnh chính khá rộng, đồ đạc bày bừa bộn, lủ khủ có vẻ như đang dọn nhà, một số vật dụng bày trong phòng có ghi chữ Bổn. Tấm tranh khá to có khung bằng gỗ bản to cỡ 10cm sơn một màu đen, để dựa ở góc nhà, góc phải bị sút đinh nên bố lật úp xuống phủ che hết một phần tư bức tranh nhưng vẫn còn nhìn thấy một phong cảnh có đám mây trắng rực rỡ, rất đẹp. Góc đáy phải có ghi tên Nguyễn phi Hoanh bằng màu sơn đỏ, đọc lên nghe thật xa lạ. Nhưng cái năm 1937 bên dưới tên tác giả nó lại làm cho tôi thật thèm muốn được sở hữu nó. Tôi đã cố thương lượng bớt một thêm hai với hai anh bạn chủ nhà, cuối cùng phải dốc hết túi và đã thỉnh được, hết bốn trăm đồng ( năm 1981 ). Chở bằng xe xích lô hết năm đồng, về đến nhà lấy tiền trả sau vì cạn láng! Tôi vẫn còn tiếc mãi là đã không mua bức tự họa của ông Hoanh khi còn trẻ, mặc quần shoọt cầm cây vợt tenis, vẽ bằng sơn dầu, khá to cỡ bằng người thật. Chỉ vì nhà quá chật chội, mua về không biết để đâu! Thôi! Cứ xem như là không có duyên với nó đi!.
      Đấy! Thế đấy! Có gặp được tác giả mới biết đầu đuôi gốc ngọn, lý lịch của tấm tranh, không thì cứ chỉ biết gọi “ Hai bò kéo xe ”. Rõ ràng ràng bây giờ được chính tác giả xác nhận nơi vẽ, có địa danh hẳn hoi.( Rất tiếc tôi đã để thất lạc một tư liệu về đường xá, xe cộ của Mỹ Tho trong đó có ghi từ một ngã tư nào đó trong TP Mỹ Tho đi xe ngựa đến Lương Phú mất hai đồng, tài liệu này phát hành khoảng năm 195..không nhớ rõ ).(Đã tìm lại được. Hình 06 ). Như vậy bức tranh không phải là loại vẽ tưởng tượng mà có nơi chốn hẳn hoi. Chúng ta cần phân biệt cẩn thận trong việc phân định giá trị tác phẩm hội họa về vẽ phong cảnh giữa tranh vẽ cảnh thật và tranh vẽ tưởng tượng. Giá trị của hai loại này khác nhau rất xa. Loại vẽ tưởng tượng chỉ có gia trị về mặt mỹ thuật đơn thuần. Còn loại vẽ phong cảnh thật. Ngoài giá trị mỹ thuật ra, nó còn có giá trị về mặt lịch sử địa phương nữa! Mặt này rất quan trọng, nó là nguồn tư liệu cho những thế hệ mai sau dùng để nghiên cứu, tìm hiểu, giới thiệu, minh họa về cách sinh hoạt, địa dư chí của thời đã qua bằng hình ảnh cụ thể, rõ ràng. Phải đánh giá cho đúng về mặt này đừng đánh đồng để rồi hối không kịp!

Ví dụ.
                     Hình 04.    Phan tư Phước ( A. Phan ). Phía sau lưng chợ Bình Tây
                                   Sơn dầu trên bố. 50cm x 65cm. năm 1957.

           Đây là tác phẩm vẽ cảnh thật. Ngày nay con kênh sau lưng chợ đã bị lấp mất. Hình ảnh này là tư liệu cho mai sau.



       Hình 05. Lê Trung. Mùa Thu. Sơn dầu/bố. 50cm x 64cm. Chữ ký đáy góc phải
    Phong cảnh đẹp nhưng không có địa danh rõ ràng. Hình ảnh chung chung ở miền Tây Nam Bộ.

       Trong cuốn “ Tự vị Tiếng nói Miền Nam ” của cụ Vương hồng Sển do nhà xuất bản Trẻ phát hành năm 1999. Ở phần nói về Mỹ Tho, trang 198 cột trái dòng thứ ba có ghi:
      “ Tổng Thạnh Quơn có 4 con lộ : Lộ số 1. Mỹ Tho đi Tân An chạy ngang qua Lương Phú…Lộ số 2 đi…v.v…”. Rõ ràng con đường chính ( Quốc Lộ) có chạy qua  địa danh Lương Phú nếu ta đi từ Mỹ Tho đến Tân An hoặc ngược lại. Một địa danh có thật chứ không phải tưởng tượng.


Hình 06. Tư liệu của Tỉnh Định Tường năm 1963 về các bến xe và những chặng đường xe sẽ chạy qua có nhắc đến tuyến xe lambretta từ Mỹ Tho đến ngã tư Lương Phú...


         Ngày nay trên đường từ Cai Lậy đi Tp HCM. Đến Trung Lương ( Cai Lậy ) có đường rẽ trái dẫn vào  vào đường cao tốc. Chạy chừng vài cây số đến gần trạm thu phí, Tại vòng xoay này, nếu nhìn về mé tay phải sẽ thấy một cái bảng hướng dẫn ghi  Cao tốc…Lương Phú - Quốc lộ 1A. ( theo ngã ba này chạy quẹo vào đoạn đường có ghi tên Lương Phú, ta sẽ ra đoạn QL1A thuộc Tỉnh Long An ).

     Hình 07. Ảnh chụp bảng hướng dẫn rẽ phải đi Lương Phú trên QL1. Rẽ trái vào đường cao tốc...


        Nếu ta đi theo Quốc Lộ 1A. Từ hướng Saigon về Mỹ Tho. Khi qua khỏi Tân An ( Long An ). Bên tay phải QL1A này có đoạn vẫn còn thấy rõ một con kênh nhỏ nằm sát lề chạy cặp theo con đường dài về phía Mỹ Tho. Có đoạn ta chỉ còn thấy dấu vết do bị lấp để lấy đường trong nhà đi ra Quốc lộ 1.                
        Dựa vào câu của ông nói “ đường đi Lương Phú-Mỹ Tho ”. Ta quan sát trong bức tranh thấy rõ bên  phải có một con rạch nhỏ chạy dọc theo con đường đất, cho thấy vị trí ông Hoanh đứng vẽ  nằm mé ở phải con đường đất trên bờ cỏ sát bên con rạch tại Lương Phú và nơi mút tầm mắt cuối con đường trong tranh là  Mỹ Tho. Chiếc xe và người quẩy gánh đang đi từ phía Mỹ Tho về Lương Phú-Tân An.                  
      Trùng khớp cảnh vẽ và hình ảnh thực tế. Kết luận. Chính xác đây là một đoạn đường của Quốc lộ 1A từ Lương Phú đi Mỹ Tho vào năm 1937. Tác phẩm này cũng đã cho ta biết QL1A vào thời điểm năm 1937 là con đường đất đỏ.
    
      Ngay từ lúc đầu tôi vẫn có biệt nhãn với bức tranh này vì vẻ đẹp lộng lẫy cộng thêm cái năm của nó. Sau ngày nghe ông Hoanh nói tôi càng quí trọng hơn nữa và tự đặt tên cho bức tranh là “ Đường đi Lương Phú - Mỹ Tho.” hay dài dòng thêm tí chút là “Cái nắng trên đường đi Lương Phú - Mỹ Tho ”. Sau những thời gian lăn lóc với cuộc sống, lúc rảnh rỗi tôi hay ngồi trước nó mà ngắm và luôn thấy có sự gần gũi, lôi cuốn lạ kỳ. Có lần tình cờ cúp điện, tôi nhận thấy không gian trong bức tranh, toàn cảnh như đang sinh hoạt dưới ánh trăng. Một không khí thật êm ả, dịu dàng, huyền diệu. Từ đó tôi càng chú ý đến nó nhiều hơn, càng có cảm nhận  sâu sắc hơn. Tôi đã từng đứng trước nó hàng giờ thưởng thức nó thật chậm rãi. Mỗi lần đứng trước bức tranh, tôi nhận thấy cái ánh sáng của nắng chan hòa đều khắp. Cái nắng  bao trùm trên mọi cảnh vật. Nắng ở trong đám mây,  ở trên cánh đồng, ở những hàng cây, bụi cỏ, con kênh, mái nhà, cùng đọng phớt lên những sinh hoạt của con người và động vật. Cái nắng tác động trên mọi thứ, mọi nơi, trên từng centimet vuông mặt bố tạo nên sự sinh động, lung linh đều khắp.  Bức tranh như được phát sáng lên bởi từng vật thể. Bắt mọi thứ phải tự thân nói lên cái chất của chính mình. Ta không thấy được cái nắng cụ thể như ở ngoài đời, nhưng lại thấy được sự ấm áp đó rất rõ qua các mẫu vật trong tranh, qua sự  mô tả bằng sắc độ của những gam màu. Một cái tuyệt đích của tác giả. Ông đã khéo léo kết hợp giữa những mảng màu đậm và nhạt, cho chúng nằm cạnh, đối chọi nhau để chúng bật lên, chìm xuống đập vào mắt người thưởng lãm! Ông khai thác sự tương phản giữa sáng và tối một cách triệt để và đã thành công! Ánh sáng lan tỏa ngay từ những  mảng màu trong tác phẩm. Thật táo bạo khi ông cho hai tàng cây thật to, tối om, nằm ngay ở hai đường trục mạnh đứng " a.c " và " b.d " có chứa hai điểm vàng trái phải trên là " a " và " b ".( Hình 08 ) chỗ nhấn mạnh của định luật hội họa. Hai mảng xậm chiếm hơn ba mươi phần trăm diện tích mặt bố toàn thể tác phẩm, nổi bật lên giữa nền trời xanh lơ xậm, cùng với cánh đồng, vạt cỏ, rặng cây cắt ngang gần nửa bức tranh, trở xuống. Hai mảng màu lạnh xậm tối, khá lớn so với toàn diện tích bức tranh. Tất cả chỉ có mục đích duy nhất là làm cho nổi bật lên những đám mây trắng xóa, chói chan, chen nhau từng từng, lớp lớp đang đùn lên cuồn cuộn từ phía cuối chân trời. Rồi đến những mảng xậm của thảm cỏ bên vệ đường, con kênh cánh đồng phía hai bên đường, kết hợp cùng rặng cây phía xa như cánh rừng bạt ngàn chặn ngang đường chân trời để biểu diễn tôn lên mảng màu nóng là con đường làng đất đỏ sáng lên, bạc đi dưới cái nắng. Sự hun hút của con đường càng tăng lên khi được điểm xuyết bằng những bóng cây đổ nằm vắt ngang tạo thành những vệt cắt, tối như những nấc thang đuổi nhau chạy dài xa dần, nhỏ lại mút tầm mắt ở cuối đường. Càng nhìn con đường càng như thăm thẳm, như muốn lọt ra ngoài bức tranh! Một điểm nhấn dưới phải trong định luật hội họa được ông  tận dụng thành công, khi đặt mút xa cuối con đường rơi vào đường trục mạnh đứng phải " b.d "( Hình 08 )



Hình 08. Những đường trục mạnh và các điểm vàng trong định luật bố cục được đặt lên mặt bức tranh.

       Trong tranh ta thấy cả một trời tĩnh lặng của miền quê, một sự êm đềm, quạnh hiu đã được tác giả làm cho sống dậy khi có bóng dáng sinh hoạt của con người! Với hai con bò bắp thịt vồng lên dưới nắng sớm, đủng đỉnh, chậm chạp kéo chiếc xe thùng bằng gỗ bên trong chất đầy những cái bao căng phồng nặng chịch, đằng trước thùng xe là người điều khiển ngồi nhàn hạ, trái hẳn với hình ảnh một người đàn bà quẩy một gánh nặng  đang lúp súp, thoăn thoắt đi ở phía sau xe. Để cho sự sinh hoạt của con người, không lẫn chìm vào rặng cây phía sau xa. Một căn nhà có mái tranh sáng chói bên vệ đường bên trái, cũng như một tàng cây vàng rực trên cao bên phải, cạnh con kênh. Mảng sáng, nóng của hai phần này được đưa vào giữa làm nền, đã tách hẳn con người cùng cảnh vật khỏi lẫn lộn vào nhau, làm cho những tầng lớp viễn cận càng thêm phong phú, dầy ra, đẩy cho chiều sâu không gian trên con đường làng sâu hút hơn, tăng thêm sự sinh động cho toàn cảnh.  Những sinh hoạt của con người cùng cái bóng của chính họ trên con đường làng đất đỏ được vẽ bằng những mảng xậm màu, nổi bật lên trên mặt đường sáng rỡ. Cảnh sinh hoạt này, ông cũng lại đặt vào đúng đường trục mạnh đứng trái " a.c ".( Hình 08 ) của định luật hội họa. Điểm cận cảnh nhất, trực tiếp đập vào mắt người thưởng ngoạn. Một cách nhấn mạnh tuyệt đối, một sự khai thác sáng tối, lẫn tĩnh động, tạo ra những mâu thuẫn, đối chọi tuyệt vời. Một bố cục về sự tương phản, rất đẳng cấp cả về ý cũng như về hình. Ta có thể xem sự hoạt động của con người trong tranh là trái tim của tác phẩm. Ông đã khai thác đúng mức các điểm vàng nghệ thuật.  Một cái động nhỏ nhoi trong một cái tĩnh thật lớn nhưng nó lại là nhịp sống. Nếu thiếu nó, bức tranh không thề nào trở thành bất hủ được.
       Từ nó tôi nghiệm thêm được một điều lý thú cho bản thân. Trước một danh tác nếu ta không có thời gian chiêm nghiệm thì khó mà cảm nhận được hết cái tinh diệu tiềm ẩn trong nó. Phải có thời gian, phải có sự hiểu biết về chuyên môn ta sẽ hiểu được những gì nó tâm sự với ta.
       Tóm lại, qua bức tranh này, thấy một sự phối hợp rất chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa cái sở học trường lớp với cái thực tại ngoài đời cùng sự tư duy của tác giả đã tạo ra một tác phẩm rất có giá trị nghệ thuật. Theo tôi, ta có thể xem đây là một tác phẩm kinh điển để tham khảo về bố cục, hình thể, bút pháp, cách dụng màu, sự diễn đạt ánh sáng và cả về ý nữa. Một tác phẩm lớn của nền hội họa VN trong thời kỳ mới phôi thai, rất xứng đáng để cho chúng ta trân trọng.
      Sau hết, có thể nói đây là một tác phẩm lớn của nghệ thuật tả thực, cũng như đã đặc tả được cái chất của miền sông nước Miền Tây Nam Bộ giá trị rất cao, không dễ tìm và nó cũng cho ta biết vào năm 1937 con đường QL1A lúc đó vẫn còn là con đường đất đỏ. Không dám đại ngôn, nhưng trong thời gian qua, tôi cũng có hân hạnh được xem qua rất nhiều tác phẩm hội họa VN qua các buổi triển lãm, trong sách báo rồi có nhận xét hơi chủ quan là. Tôi chưa thấy có một tác phẩm hội họa nào của người Việt cùng thời, vẽ phong cảnh hiện thực mà vượt qua được tấm này của ông Nguyễn phi Hoanh. 

Cauminhngoc
10/01/2013


TÓM LƯỢC TIỂU SỬ TÁC GIẢ.


    Sinh ngày 18-10-1904 tại làng An Hội, huyện Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, trong một gia đình có truyền thống hành nghề Đông y. Học tiểu học ở Bến Tre sau lên học trung học ở Trường Taberd (Sài Gòn). Từ nhỏ, ông đã say mê nghệ thuật, qua những bức tranh thủy mặc treo nơi bàn thờ tổ tiên. Ý tưởng muốn theo học ngành nghệ thuật ở nước ngoài đã thôi thúc ông tìm đường sang Pháp.
   Theo lời khuyên của Hội Sinh viên Việt Nam tại Pháp, ông dự thi vào Trường Mỹ thuật Toulouse và đã đỗ sau kỳ thi sát hạch. Ba năm miệt mài học tập, ông đã đỗ bằng tốt nghiệp ngành sơn dầu với đề tài Người mẫu xem tranh khi họa sĩ vắng mặt. Tác phẩm này đoạt giải nhất Manry của thành phố Toulouse với huy chương bạc và 1.000 quan tiền thưởng. Ông đến Paris, học tiếp ở Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật, vừa phải chật vật kiếm sống để tiếp tục học tập, vừa tham gia phong trào sinh viên Việt Nam yêu nước lúc bấy giờ ở Pháp.
   Năm 1934, ông về nước. Thống đốc Nam Kỳ lúc bấy giờ là Krautheimer tìm cách tranh thủ ông, đề nghị ông làm Giám đốc Trường Mỹ thuật Gia Định, nhưng ông từ chối, về tạm trú nơi quê vợ ở Mỹ Tho. Tại đây, nhà sư Minh Đường trụ trì ở chùa Vĩnh Tràng đã đặt ông làm tượng mình và vị sư tiền nhiệm. Tượng hai vị hòa thượng mặc áo cà sa, chắp tay niệm Phật còn được lưu giữ đến nay ở bên cổng chùa.
   Một thời gian sau, ông lên Sài Gòn sống bằng nghề vẽ tranh phong cảnh (Một số tranh tĩnh vật vẽ theo phong cách tân cổ điển, nay được lưu giữ ở Bảo tàng Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh).
  Năm 1935, ông dạy vẽ ở Trường Donnai và Huỳnh Khương Ninh. Cũng trong thời gian này tập tiểu thuyết Vì đâu, chủ đề tố cáo chính sách cai trị của thực dân Pháp được đăng tải nhiều kỳ trên báo Dân quyền. Tháng 8-1945, ông tham gia giành chính quyền Sài Gòn, được bầu làm đại biểu Quốc hội tỉnh Mỹ Tho, khóa đầu tiên. Khi kháng chiến bùng nổ, ông là ủy viên tài chính UBKCHC Nam Bộ.
   Sau hiệp định Genève, tập kết ra Bắc, ông được điều về giảng dạy ở Trường Mỹ thuật Việt Nam toàn quốc tại Nhà hát lớn Hà Nội, bức tranh Hồi tưởng đất Bắc của ông đã đoạt giải nhì
 Bức tranh được Đại sứ Tiệp Khắc tại Hà Nội mua ngay trong ngày khai mạc.
   Về đề tài lịch sử chống ngoại xâm, ông có những bức tranh Hai Bà Trưng xuất trận, Trận Bạch Đằng, Vua Quang Trung tiến vào Ngọc Hồi, Trương Định được nhân dân phong soái v.v… Những tranh này hiện đang được lưu giữ ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Lịch sử TP. Hồ Chí Minh. Cũng trong thời gian này, ông hoàn thành quyển Lược khảo mỹ thuật Việt Nam (Nxb KHXH, 1970). Sách được dịch sang tiếng Nga sau đó.
   Hòa bình lập lại, ông trở về TP. Hồ Chí Minh, giảng dạy lịch sử mỹ thuật ở Đại học Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh. Tác phẩm Một số nền mỹ thuật thế giới được Nxb Văn hóa in năm 1978. Quyển sách đã được ông bổ sung, hoàn chỉnh và ra mắt bạn đọc với tên mới Mỹ thuật và nghệ sĩ (Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1993). Ký ức lão cuồng họa, tập hồi ký kể về cuộc đời mình từ lúc nhỏ nơi quê nhà, sang Pháp học hành, tham gia cách mạng và hoạt động nghệ thuật chưa kịp xuất bản, thì ông đã vĩnh viễn ra đi vào ngày 9-1-2001.
   Cuộc đời ông là một tấm gương lao động nghệ thuật tận tụy và trong sáng. Ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhất. Viện Tiểu sử ABI (Mỹ) tặng ông Huy chương vàng năm 1997.

                                                                                                                  
Nguồn UBND Tỉnh Bến Tre