Phêrô-Giuse Nguyễn Hữu Bài (阮有排). Sinh năm 1863 tại làng Cao Xá, tổng Xuân Hòa, phủ Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị trong một gia đình theo đạo Công giáo. Ông mất năm 1935.
- Năm 1908 Nguyễn Hữu Bài lãnh chức Thượng thư Bộ Lại. Khi Khâm sứ Pháp Mahé đề nghị đào vàng bạc chôn ở lăng Tự Đức, Nguyễn Hữu Bài nhất quyết phản đối. Dân chúng đương thời đặt ra câu tục ngạn:
"Phế vua không Khả, đào mả không Bài".
- Năm 1923, ông được thăng Thái phó, Võ hiển điện Đại học sĩ, Cơ mật Viện trưởng đại thần. Sau đó ông được giữ chức Thượng thư Bộ Lại.
(Trích từ nguồn Wikipedia).
- Năm 1932, ông xin về hưu trí nhưng Vua Bảo Đại không chấp thuận.
- Ngày 01/11/1932 được vua Bảo Đại phong cho ông tước Phước Môn Quận Công.
- Ngày 02/5/1933, mới có dụ ban cho ông về hưu và tặng ông chức Cố Vấn Nguyên Lão.
(Trích trong "Thơ Nôm Phức Môn", phần tiểu sử ông Nguyễn Hữu Bài của ông Nguyễn Thúc).
Giới thiệu tập thơ Nôm. Bản viết tay được cho là thủ bút của ông Nguyễn Hữu Bài.
- Tập thơ gồm 180 bài. Viết tay trên giấy bản đơn kích thước:180mm x 310mm. Ngoài cùng ốp hai tờ giấy mềm hơi dày làm bìa có màu da bò (hay màu của bao xi-măng) và được đóng theo lối cổ, gáy sách khâu bằng chỉ màu đỏ. Có độ dày15mm do 180 tờ giấy bản đóng lại mà thành. Tình trạng còn tốt cỡ: 95%.
- Tập thơ Nôm 180 bài viết tay này không thấy có tên tác giả, không thấy phần giới thiệu cùng mục lục, không có đánh thứ tự số trang. cũng như không ghi ngày tháng hoàn tất.
- Toàn bộ tập thơ, từ cách trình bày đến lối viết, tất cả do cùng một người thực hiện.
- Hầu hết các bài thơ viết theo thể "Thất ngôn bát cú". Được trình bày theo lối song ngữ viết bằng tay chia làm 2 phần trên một măt giấy. Phần chữ Nôm nằm ở bên trên, viết bằng bút lông với mực nho đen. Chữ viết cẩn thận và đẹp còn rõ từng nét bút không dấu vết tẩy xóa. Chứng tỏ người viết là một người rất giỏi về lãnh vực ngôn ngữ Hán-Nôm. Phần chữ Quốc ngữ viết bằng bút sắt, mực màu xanh đặt ở phần bên dưới, màu mực phần nào đã bị phai do lâu ngày, hơi mờ nhưng vẫn còn đọc được và có biểu hiện ngấm ra mặt sau tờ giấy. Có đôi chỗ mực bị mờ hẳn, người sau đã viết lại cho rõ nhưng rất ít.
- Toàn bộ tập thơ gồm những bài có nội dung mô tả những sự kiện đã xảy ra trong cuộc sống hay những lần du lãm, đi công vụ của tác giả. Mọi sự đều được sắp xếp tuần tự theo thời gian trước sau như những thước phim hiện thực rất sống động. Xét từ đầu tập thơ cho đến bài thứ 21 mới thấy có ghi niên đại là năm Duy Tân thứ 6 (1912). Niên đại này được cho là xuất hiện sớm nhất trong tập thơ và muộn nhất là năm Bảo Đại thứ 7 (1932) ở phần gần cuối tập.
- Có một điểm rất đặc biêt cần lưu ý là toàn bộ mẫu tự "t" và một số mẫu tự "đ" trong các bài thơ đều không thấy có gạch ngang trên đầu như thường thấy. Có vẻ như muốn tránh chuyện khi nhìn vào trông giống như cái "Thập tự giá". Một biểu hiện của những người theo đạo Công giáo sùng đạo thường hay thể hiện trên văn bản viết tay từ những năm 1960 đổ về trước (Chuyện này người viết đã từng chứng kiến thời còn đi học. Sau này người viết đã từng sở hữu một bản thủ bút sơ thảo quyển tự điển Pháp-Việt do ông Trương Vĩnh Ký biên soạn. Trong đó mọi mẫu tự "t" riêng lẻ đều không thấy gạch ngang trên đầu hoặc ông gạch một mạch dài suốt những chữ có mẫu tự "t").
A - Lạm bàn về tập thơ Nôm có 180 bài hoàn toàn viết bằng tay!
- Xét nội dung tập thơ là những lời tự thuật của một người rất giỏi về ngôn ngữ Hán Nôm đã dùng nó viết thành những bài thơ để gởi gắm nỗi niềm và được hệ thống theo thứ tự thời gian trước sau. Chắc chắn phải là tác giả mới hội đủ điều kiện để thực hiện.
- Quá trình hình thành tập thơ phải trải qua một quãng thời gian nào đó chứ không thể trong một đôi ngày mà được.
- Tập thơ có đề tựa cho từng bài nhưng không ghi tựa tập thơ và ai là người sáng tác. Phải chăng tác giả tận dụng những lúc nhàn rỗi, tự mình sắp xếp, viết lại cho đẹp đem đóng thành tập để dễ bề bảo quản nên không cần thiết phải viết đề tựa vào chăng?
- Nếu cho rằng tác giả đã nhờ ai đó sao chép lại tập thơ, chắc chắn người được giao phải giỏi về Hán Nôm và viết chữ đẹp. Sau khi hoàn tất, ít nhiều gì người đó phải có đôi lời về tác giả tập thơ là ai và bản thân mình. Rất tiếc là không thấy có ghi chú gì.
- Còn như cho rằng do một ai đó sưu tập rồi ra sức viết lại. Nếu như việc này xảy ra thì người thực hiện chuyện này phải là người rất rảnh rỗi và cực kỳ yêu thích môn Hán-Nôm và chắc chắn phải có đôi lời tự giới thiệu về mình và chú thích tên tác giả tập thơ chứ không thể bỏ trống một cách vô tội vạ như thế.
B - Tác giả tập thơ 180 viết tay là ông Nguyễn Hữu Bài hay của ai khác?
Dựa vào hơn 70 bài tập trong "Thơ Nôm Phước Môn" của ông Nguyễn Thúc đã được xuất bản tại Saigon năm 1959. Đem đối chiếu với những bài có đề tựa tương cận trong tập thơ180 bài viết tay. Tất cả cho thấy có một sự trùng khớp rất rõ ràng giữa hai tài liệu... Từ đó giúp ta có đủ cơ sở để khẳng định tập thơ Nôm 180 bài bản viết tay này cũng là của ông Nguyễn Hữu Bài chứ không phải của ai khác.
C - Tập thơ 180 bài viết tay này có phải là thủ bút của ông Nguyễn Hữu Bài?
Mặc dù đã khẳng định được tác giả tập thơ Nôm 180 bài viết tay này là của ông Nguyễn Hữu Bài. Nhưng còn có một cẩu hỏi khác không kém phần quan trọng. Tập thơ 180 bài viết tay này có phải là thủ bút của ông Nguyễn Hữu Bài hay không? Một câu hỏi cần có sự trả lời thỏa đáng để định vị giá trị đích thực cho tập thơ.
Mặc dù đã có một số lập luận cho rằng tập thơ 180 bài viết tay là thủ bút của ông Nguyễn Hữu Bài nhưng vẫn chưa thể khẳng định. Rất tiếc người viết cũng là người sở hữu tập thơ vẫn chưa tìm thấy một tài liệu hay văn bản nào có bút tích của ông Nguyễn Hữu Bài xuất hiện trên văn đàn để so sánh và đối chiếu nên vẫn còn trong vòng nghi vấn... Nhưng dẫu sao tập thơ Nôm 180 bài có một không hai này, tự thân nó cũng đã mang một giá trị đích thực về mặt văn học sử Hán Nôm và một số yếu tố liên quan đến lịch sử nước nhà trong giai đoạn từ năm 1912 đến năm 1932 khiến tập thơ rất đáng được trân trọng và gìn giữ.
[Ông Nguyễn Hữu Bài bước vào con đường hoạn lộ từ năm 1884 (Kiến Phúc Nguyên Niên) và về hưu năm 1933 (Bảo Đại 8). Và ông mất vào năm 1935 (Bảo Đại 10) ]
I - MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA VỀ TẬP THƠ.
Đôi điều về quyển "THƠ NÔM PHƯỚC MÔN".
Quyển "THƠ NÔM PHƯỚC MÔN" do ông Nguyễn Thúc đã cho phát hành vào năm 1959 tại Miền Nam. Tập thơ in hơn 70 bài thơ của ông Nguyễn Hữu Bài, hoàn toàn bằng chữ Quốc ngữ, không thấy có phần chữ Nôm. Không rõ tác giả Nguyễn Thúc Tiên sinh đã tham khảo những bài thơ Nôm của ông Nguyễn Hữu Bài từ một nguồn nào. Nguồn đó có phần chữ Nôm không hay chỉ thuần chữ Quốc ngữ. Đăt trường hợp có chữ Nôm đi kèm mà Nguyễn Thúc Tiên sinh đã bỏ qua. Phải chăng vào thời điểm đó việc ấn loát có thêm phần chữ Nôm quá tốn kém nên Nguyễn Thúc Tiên sinh đã không đưa vào, điều này cũng không thấy Nguyễn Thúc Tiên sinh nhắc!? Nhưng phải nói ở phần giới thiệu, chú thích và tiểu sử về ông Nguyễn Hữu Bài, ông Nguyễn Thúc đã dày công tìm hiểu và mô tả từng chi tiết rất công phu và rõ ràng. Có lẽ khó có tư liệu nào làm cho người đọc, nhà nghiên cứu hiểu rõ về tiểu sử ông Nguyễn Hữu Bài bằng cuốn "THƠ NÔM PHƯỚC MÔN" của ông Nguyễn Thúc nên người viết mạn phép xin trích đăng phần giới thiệu và tiểu sử trong quyển "Thơ Nôm Phước Môn" để mọi người rộng đường tham khảo. Rất mong được gia đình ông Nguyễn Thúc hay người sở hữu bản quyền tập thơ lượng thứ cho việc trích dẫn này.
Tập thơ gồm 106 trang (cả bìa). Kt: 20cm x 26cm, được xuất bản làn thứ Nhất năm 1959. Do ông Nguyễn Thúc sao lục và chú thích. Toàn bộ được in trên nền giấy hoa, dưới sự trình bày rất công phu của ông Nguyễn Huyền Anh.
Mục lục
TIỂU SỬ ÔNG NGUYỄN HỮU BÀI.
Dưới đây là phần tiểu sử về ông Nguyễn Hữu Bài trích trong quyển "THƠ NÔM PHƯỚC MÔN" do ông Nguyễn Thúc biên soạn. Có thể xem đây là một tư liêu hiếm hoi nên đã chụp và đăng tải lại toàn bộ để rông đường tham khảo cho những ai cần đến.
III - PHẦN ĐỐI CHIẾU.
Dưới đây là phần đối chiếu giữa hai bản cho thấy có đôi chút khác biệt. Không rõ là ông Nguyễn Thúc tự sửa theo ý mình hay sao chép lại ở một nguồn tư liệu khác?
1 - Vịnh tàu bay.
Cauminhngoc
Lưu giữ và giới thiệu
06/02/2025
(1) Dựa theo bài số 21 có ghi niên đại Duy Tân thứ 6 (1912)