THANH KIẾM CỔ CÁN NGÀ CÓ CHẠM HÌNH RỒNG.
LTS. Đây là bài viết của người không chuyên, tất cả nhận
đinh đều mang tính suy diễn chủ quan của người không có trường lớp mà ham tìm hiểu nên sẽ
có rất nhiều thiếu sót. Rất mong được các nhà nghiên cứu chân chính bỏ qua.
I – MÔ TẢ THANH KIẾM.
* Chiều dài tổng thể tính luôn vỏ kiếm: 840mm
* Kiếm cộng bao nặng: 1.000gram.
*
Vỏ
kiếm dài: 680mm. Nặng: 200gram.
*
Kiếm
không kể bao nặng: 800gram.
* Hình ảnh con rồng được chạm trên yếm đồng yểm miệng bao và yếm đồng yểm chân chuôi kiếm.
A – Lưỡi kiếm
* Lưỡi kiếm được luyện bằng thép có dáng hơi cong nhẹ lên về phía mũi. Độ dài không tính chuôi là: 580mm.
* Bề rộng bản diện lưỡi kiếm chỗ sát với đĩa kiếm cách là: 32mm. Ra giữa là 30mm rồi nhỏ dần về phía mũi kiếm.
* Trên bản diện lưỡi kiếm có vét 2 rãnh. Lớn dưới và nhỏ trên nằm song song chạy dài đến gần mũi kiếm. Nơi cuối rãnh lớn có vân kiếm khắc trũng uốn lượn như mũi xà mâu. Rãnh nhỏ trên nhọn như mũi dùi chạy vượt qua vân kiếm xà mâu, cả hai cùng dừng lại cách mũi kiếm một đoạn chừng 50mm.
* Sống kiếm. Phần ở sát với kiếm cách dày: 07mm, trên sống kiếm cũng được vét 2 rãnh nhỏ song song nằm sát rìa mép sống dài khoảng 390mm. Từ đây trở ra phía mũi, phần sống kiếm được bóp mỏng lại tạo độ sắc bén cho đầu sống kiếm.
* Trên bản diện lưỡi kiếm đôi chỗ xuất hiện dấu vết rỉ sét đã ăn khuyết khá sâu vào thân cho thấy độ tuổi của nó phải trên vài trăm năm...
* Cạnh sắc của kiếm đôi chỗ bị mẻ nhẹ nhưng vẫn không làm mất đi độ bén ngót của nó,
* Phần chân kiếm sát với đĩa kiếm cách có yểm một yếm đồng dạng ống dẹt, dài cỡ 30mm. Rộng 34mm. Cạnh ngoài có chạm viền hoa văn ôm chặt chân kiếm. Nơi cạnh ở phần sống thanh kiếm bị mẻ nhẹ.
* Giữa đĩa kiếm cách và chân lưỡi kiếm có chèn một lá đồng mỏng, nhỏ hình quả trám để giữ cho thân kiếm luôn được gắn kết chắc chắn với chuôi kiếm.
B – Vỏ kiếm.
* Vỏ kiếm được tạo tác bằng hai mảnh gỗ ghép lại, dày khoảng 10mm. Có đính 02 đai đồng. Một lớn hình bướm rộng cỡ: 30mm. Một nhỏ mảnh cỡ 12mm. Mục đích để giữ cho hai mảnh gỗ vỏ kiếm dính chặt vào nhau không bị tách rời ra.
* Quan sát kỹ vỏ gỗ cho thấy có màu vàng nhạt và khá nhẹ. Toàn thân vỏ kiếm được bã lên một lớp đệm khá dày để bảo vệ rồi mới quét phủ lớp sơn then lên. Qua nhiều thế kỷ bị khí hậu nóng ẩm nhiệt đới tác động, toàn bộ lớp sơn then bảo vệ bị biến dạng. hiện tượng dộp, tróc lở xảy ra đã bóc đi hầu hết lớp sơn bảo vệ để lộ mặt gỗ vỏ kiếm ngậm sơn then láng bóng. Đôi chỗ còn sót lại, là những mảng lam nham sần sùi nứt rạn lấm tấm như vảy rắn, vuốt nhẹ thấy nhám cộm da tay.
* Miệng vỏ kiếm được yểm bằng một yếm đồng đỏ, dạng ống dẹt có chiều ngang: 43mm, dài 65mm, trên trên bề mặt đó có chạm khắc con rồng đường nét rất nhuyễn và tinh tế.
* Phần mũi vỏ kiếm cũng được bịt một yếm ống bằng đồng màu vàng, dạng sừng dài chừng 125mm, toàn thân có chạm vảy cá nằm sát nhau cùng chiều. Đặc biệt. Nơi đỉnh nhọn của yếm đồng được úp thêm một cái mũ, trên đỉnh có đính hai sợi đồng cuộn tròn như ngọn râu bí dính vào nhau chìa ra khỏi mũi yếm bao kiếm giống hai lỗ tai.
* Chất liệu bằng đồng đỏ ở yếm yểm miệng vỏ kiếm và đai vỏ kiếm bị khí hậu nóng ẩm vùng nhiệt đới tác động cộng thêm bề mặt bị lớp bợn bụi két vào qua nhiều thế kỷ đã khiến cho sắc đỏ của đồng biến thành màu đen và lớp bơn bụi cũng đã che lấp bớt đi phần nào những nét chạm khắc nhưng những họa tiết của từng cụm vẩy cùng dáng cách uốn lượn của con rồng vẫn còn nhìn thấy khá rõ dù không trọn vẹn. Riêng phần yếm yểm mũi bao kiếm chất liệu đồng vẫn giữ được ánh sắc vàng nguyên thủy nhưng cũng đã xuống sắc xậm đen. Vỏ kiếm không thấy đính khoen để móc dây đeo. Có vẻ như thanh kiếm thường được các kiếm sĩ cầm hoặc dắt vào đai lưng chứ không đeo lủng lẳng.
Một câu hỏi được đặt ra. Tại sao vỏ kiếm không để nguyên trạng sắc gỗ ban đầu mà lại cho phủ thêm lớp sơn ta? Lớp sơn phủ ban đầu màu gì? Có điểm xuyết hay vẽ thêm hoa văn gì trên đó không? Và điều này có đánh động đến khái niệm cho rằng thanh kiếm cán ngà chạm rồng có giá trị đặc biệt quý không?
C – Kiếm cách (Tsuba). Phần kiếm cách hay còn gọi là vệ kiếm là một đĩa đồng hình quả trám có màu vàng xậm, độ dày: 05mm. Dài: 70mm. Rộng 50mm. Bề mặt để trơn không thấy chạm khắc gì. Mục đích gắn để bảo vệ cho bàn tay khi giao chiến.
D - Chuôi kiếm.
Gồm có 3 phần: Dáng, phụ kiện đi kèm và màu sắc.
1 –
Dáng của chuôi ngà:
Toàn thân chuôi kiếm là một khối ngà đặc,
dáng quả chuối hơi quặp về phía đầu chuôi. Trên bề mặt chuôi ngà xuất hiện nhiều
vết nứt rải rác chạy dọc theo thân. Chiều dài tính từ đĩa kiếm cách đến đầu chuôi
đo được là:155mm. Vòng chu vi quanh đuốc kiếm là:110mm. Phía mỏm đầu chuôi kếm có
hiện tượng bị sứt mẻ rất trầm trọng do bị va đập nhiều mà ra.
2 -
Phụ kiện trên chuôi ngà:
· Yếm đồng. Phần chân chuôi kiếm sát với đĩa kiếm cách được bọc bởi một yếm đồng dạng ống dài ra đến giữa chuôi. Do trải qua một thời gian lâu dài bị khí hậu nóng ẩm tác động hàng vài thế kỷ nên chất liệu đòng đỏ của yếm yểm chân chuôi kiếm bị lão hóa. Dẫn đên hiện tượng sứt mẻ xảy ra quanh vành miệng ở giữa thân chuôi. Chỗ dài nhất còn lại chừng: 75mm và ngắn nhất cỡ 50mm.
·
Trang trí trên yếm. Trên bề mặt yếm đồng có
chạm khắc trang trí hình con rồng nhưng do bị sứt mẻ quá nặng nên chỉ còn thấy
dáng vẻ loáng thoáng, không còn trọn vẹn.
·
Đai đồng yểm chân chuôi kiếm. Yếm được giữ
chặt vào chân chuôi ngà bằng một đai đồng mỏng rộng cỡ 15mm.
· Thông thường ở những thanh kiếm khác, hầu hết ở phần đầu chuôi đều có yểm một cái yếm bằng kim loại, mục đích để ngăn, giữ thanh kiếm không bị tuột khỏi bàn tay khi được rút ra khỏi vỏ. Riêng ở thanh kiếm cán ngà chạm rồng này không thấy có phần yếm ngăn giữ đó mà chỉ thấy trơ ra một cùi ngà đặc hơi quặp và đầu chuôi bị sứt mẻ lam nham khá nặng. Phải chăng trước đây nó cũng được gắn một cái yếm bảo vệ, nhưng trải qua hàng vài thế kỷ đã không còn giữ được và bị rơi mất. Hay vì hình dáng hơi quặp của chuôi đã giúp cho sự cầm nắm vững chắc rồi nên không nhất thiết phải gắn thêm yếm đầu chuôi nữa?
· Yếm đồng yểm chân chuôi kiếm trải qua một thời gian hàng vài trăm năm bề mặt bị lão hóa đã hình thành nên một lớp ten có ánh sắc màu đen bóng bao trùm giống như một lớp da. Hiện trạng cho thấy lớp da trên bề mặt yếm này đôi chỗ đã bị dộp rụng mất từng mảng lớn nhỏ không đều để lộ ra mặt đồng bên dưới có màu nâu xám nhẹ. Hiện tượng bị dộp để lại những viền khoang nhìn thấy rất rõ, không phải do ma sát làm mòn thường để lại độ mịn và láng đều liền mặt.
3 - Màu sắc của cán ngà:
Toàn thân cán ngà đã bị lạc tinh không còn màu trắng ngà nguyên thủy. Những nơi trước đây bị yếm đồng che khuất, mặt ngà chốn này bị ám thành ngấn có màu nâu đen khác hẳn với phần không bị yếm che phủ có màu nâu xậm sáng hơn.
II – PHÂN LOẠI THANH KIẾM CÁN NGÀ.
1 - Kiếm thực chiến: Vì có một vài dấu hiệu sau:
* Ở phần đầu chuôi kiếm khối ngà bị sứt mẻ rất nặng cho thấy có sự va đập mạnh nhiều lần khi giao chiến mà ra.
* Lưỡi Kiếm có độ cứng cao của loại thép được tôi luyện công phu. Thân và chuôi liên kết với nhau rất chắc chắn và còn khá sắc bén thể hiện chức năng của vũ khí cá nhân cực tốt.
* Phần sống (gáy) của yếm đồng yểm chân lưỡi kiếm sát với đĩa kiếm cách cho thấy đã bị mẻ mất một miếng nhỏ phía đầu. Chỉ có sự va chạm khi giao chiến mới có thể bóc đi miếng đồng nơi góc khuất này
Dựa vào những phân tích trên, tất cả cho thấy thanh kiếm này thuộc loại kiếm thực chiến chứ không phải loại kiếm lệnh của tôn giáo hoặc kiếm đeo trang trí cho các quan lại thời thanh bình.
2 – Dấu hiệu Vương quyền trên thanh kiếm cán ngà.
Theo quan niệm của xã hội thời Phong kiến. Hình ảnh con rồng chỉ dành riêng cho Vua. Quan lại và thứ dân không được phép dùng. Nếu vi phạm sẽ mang tội khi quân. Do đó không ai dại gì mà đi chạm khắc hình con rồng lên vật dụng của mình để rước vạ vào thân. Các quan lại, chức sắc càng không thể..
Quan sát kỹ hiện vật. Có hai nơi mang hình ảnh con rồng, dấu hiệu Vương quyền và là vật quý hiếm.
* Một ở yếm đồng
yểm miệng bao kiếm.
* Một ở yếm đồng yểm chân chuôi kiếm nơi tiếp giáp với đĩa kiếm cách.
* Chuôi kiếm được làm bằng khối ngà đặc để trơn không có chạm khắc, không phải làm bằng gỗ hay vật liệu bào khác. Một dấu hiệu thể hiện vật trân quý.
Tất cả những điều vừa nêu trên chứng tỏ chủ sở hữu thanh kiếm này phải thuộc dạng cực kỳ đặc biệt chứ không phải hàng tướng lãnh bình thường. Rất tiếc những nơi có chạm rồng chất liệu đồng đã bị oxy hóa và thời gian bào mòn, sứt mẻ khá nhiều nên chỉ còn loáng thoáng dáng con rồng chứ không còn thấy được rõ.
Có vài thắc mắc cần sự lý giải.
* Biểu tượng con rồng có được xã hội phong kiến cho phép sử dụng rộng rãi đến mọi tầng lớp quần chúng hay chỉ dành riêng cho Vua?
* Phải chăng thanh kiếm cổ cán ngà có chạm trổ hình rồng này là của một vị Vương nào đó sử dụng khi đang còn trong giai đoạn tranh giành quyền lực chưa lên ngôi Đế?
Nên nhớ đây là thanh kiếm chiến đấu thực sự đã ra đời cách nay ít nhất cùng vài thế kỷ chứ không phải loại kiếm sử dụng trong tế lễ tôn giáo hay sản xuất sau này.
III – TRUY TÌM NGUỒN GỐC XUẤT XỨ THANH KIẾM CÁN NGÀ.
1 – Những thanh kiếm thời Trịnh-Nguyễn lấy từ trên mạng xã hội.
Hình ảnh
một vài thanh kiếm thời Hậu Lê & Chúa Trịnh
2 – Thanh kiếm cán ngà có chạm rồng ở yếm
yểm miệng bao và yếm yểm chân chuôi kiếm.
Xét và đối chiếu với hình ảnh những thanh kiếm thời Hậu Lê và Chúa Trịnh của nhà nghiên cứu Võ Trần Đại Việt cho thấy thanh kiếm cán ngà rất tương cận với những thanh kiếm ở giai đoạn Hậu Lê và Chúa Trịnh.
IV – MỤC ĐÍCH.
Theo ý chủ
quan. Đây là thanh kiếm thực chiến có dấu hiệu sử dụng thường xuyên trong chiến
đấu. Rất tiếc không phải là chuyên gia nghiên cứu lịch sử và cũng không có điều
kiện dùng phương pháp khoa học để giám định độ tuổi chính xác của thanh kiếm. Nếu
xác định được chắc chắn độ tuổi của thanh kiếm cán ngà có chạm rồng này thì phần
truy nguyên sẽ có nhiều thuận lợi hơn.
Với bài này, người viết chỉ muốn nêu lên một thắc mắc về thanh kiếm cán ngà có chạm rồng này là của ai, do ai sử dụng ở vào giai đoạn lịch sử nào mà thôi, ngoài ra không có ý gì khác và nếu lý giải được ai là người đã từng sử dụng thanh kiếm thì đó cũng là điều thú vị cho bản thân và cũng là động cơ khích lệ cho những ai thích sưu tầm đồ xưa vật lạ còn mù mờ chưa rõ nguồn gốc đích thực của nó.
V – LẠM BÀN.
Dựa vào hình ảnh những thanh kiếm thời Hậu Lê-Trịnh của nhà nghiên cứu Võ Trần Đại Việt cho thấy thanh kiếm cán ngà chạm rồng có khá nhiều điểm tương đồng. Và nếu cho rằng thanh kiếm cán ngà chạm rồng xuất hiện vào thời Hậu Lê – Trịnh (1428 – 1789) đến thời Tây Sơn và Nguyễn Gia Long. Một câu hỏi được đặt ra. Ai là người chủ nhân của thanh kiếm cán ngà có chạm hình rồng này?
1 - Diễn tiến lịch sử Việt Nam qua các giai đoạn: Từ nhà Hậu Lê và Trịnh đến nhà Tây Sơn - Nguyễn Ánh.
* Giai đoạn Lê sơ (1428-1527). Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn cho đến khi bị họ Mạc cướp ngôi. Giai đoạn này người chinh chiến nằm gai nếm mật là vua Lê Lợi. Rất có thể vua Lê Lợi sử dụng thanh kiếm có chạm rồng.
* Thời Nam Bắc triều xảy ra vào những năm (1533 - 1593). Cuộc xung đột xảy ra giữa Mạc Đăng Dung và Nguyễn Kim. Giai đoạn này Mạc Đăng Dung xưng Đế và Nguyễn Kim xưng Chúa. Chúa Nguyễn Kim bị loại bỏ vì lấy danh nghĩa phù Lê. Nên chuyện thanh kiếm của Chúa Nguyễn có chạm rồng là không thể. Chỉ còn mỗi tướng Mạc Đăng Dung lên ngôi năm 1527. Chưa rõ là thanh kiếm họ Mạc sử dụng khi còn là tướng có chạm rồng hay không?
* Thời Trịnh Nguyễn Phân tranh (1627 – 1777), Cuộc xung đột xảy ra giữa Trịnh Kiểm và Nguyễn Hoàng cũng bị loại vì cả hai cùng dùng danh nghĩa phù Lê. Nên thanh kiếm của họ sử dụng cũng không thể chạm hình rồng.
* Thời Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1771 – 1802). Giai đoạn này rất hỗn loạn, nhất là sau khi Tây Sơn đánh thắng quân nhà Thanh, danh nghĩa phù Lê bị xem nhẹ. Nguyễn Nhạc xưng Đế và Nguyễn Huệ cũng đã xưng Đế và sau cùng là Gia Long.
Theo lịch sử cho thấy có một số vị là chiến tướng với cả một quá trình chinh chiến nằm gai nếm mật vào sinh ra tử và cuối cùng đã đạt được mục đích, theo thứ tự trước sau là: Vua Lê Lợi (1385-1433). Vua Mạc Đăng Dung (1483-1541). Vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc) (1743-1793), Vua Quang Trung (1753-1792). Vua Gia Long (1762 - 1820). Đây là những vị tướng đã từng đích thân tham chiến qua nhiều trận đánh và sau đó lên ngôi Hoàng Đế...
2 - Giả thiết:
Trong giai đoạn xã hội nhiễu nhương, tứ phương lọan lạc bất ổn. Với những vị tướng tài giỏi được quần chúng tôn làm minh chủ để mang lại sự ổn định cho xã hội. Khi đã hội đủ những yếu tố thuận lợi về thiên thời, địa lợi và nhân hòa, họ thường xưng Vương. Và từ thời khắc này hình ảnh con rồng luôn được gắn liền với vị Vương đó. Chuyện này không ngoài mục đích chứng tỏ uy quyền của vị thiên tử được mệnh trời giao phó, tạo niềm tin vững chắc cho mọi người. Do đó chuyện thanh kiếm luôn mang theo mình có chạm rồng cũng là điều dễ hiểu.
* Nếu cho rằng thanh kiếm cán ngà có chạm rồng này là vũ khí cá nhân của vị
một Quân vương Việt Nam nào đó sử dụng trong thời chiến. Vậy
thanh kiếm này có từng thuộc về ai trong các vị Vua đã nêu trên không?
* Nếu
cho là không phải! Lý do nào trên thanh kiếm cán ngà lại có chạm rồng? Xin nhắc
lại. Dưới thời Phong kiến hình ảnh con rồng chỉ dành riêng cho nhà Vua. Quan lại
và thứ dân cấm không được sử dụng biểu tượng này.
VI – PHẦN HÌNH
ẢNH CỦA THANH KIẾM CÁN NGÀ CÓ CHẠM RỒNG.
a - Các bộ phận của thanh kiếm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét