Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2025

Nhận xét về cái chóe vẽ cây Anh Túc. Khoảng giữa thế kỷ 17.

         Nhận xét về cái chóe vẽ cây Anh Túc. Khoảng giữa thế kỷ 17.

     LTS. Đây là nhận định của một người không chuyên nhưng đam mê thích đào sâu tìm hiểu về những phẩm vật hiện đang lưu giữ trong tay mà người viết thấy rằng cần phải được minh chứng một cách rõ ràng về nguồn gốc cũng như giá trị khảo cứu, tránh những chuyện suy diễn mập mờ vu vơ ảo tưởng không hay. Bài viết này như một bài luận văn, không ngoài mục đích tìm kiếm sự chỉ giáo từ các bậc tri giả chuyên ngành để người viết có dịp trau dồi học hỏi thêm về lãnh vực gốm sứ. Do hiểu biết còn hạn hẹp nên không thể tránh khỏi sự thiếu sót và nông cạn. Rất mong được các bậc trưởng bối và những nhà khảo cứu chuyên ngành bỏ quá đi cho. Xin đa tạ.

                                                                      ***

                    

                                         Hình 01. Chóe vẽ hoa và quả Anh Túc.

                                                                       

        I – Về dáng cách tổng quan, màu sắc và họa tiết.

A – Về dáng cách tổng quan.       

  •          Tên gọi:  Chóe. Đã bị mất nắp trước khi thỉnh về. Phần còn lại nguyên lành không tỳ vết.
  •          Thể loại: Đồ gốm sứ Trung Quốc.
  •           Chất liệu: Đất Cao lanh nung // Độ dày của thai cốt đo ở vành miệng: 05mm.
  •           Chiều cao tính từ cổ đến chân: 370mm // Nặng: 4.100gr.
  •           Họa tiết:  Vẽ tay, mô tả vòng đời cây Anh Túc từ hoa đến quả già nứt vỏ lộ hạt.
  •           Men:  Trắng và Xanh lam xậm.
  •           Chu vi vành cổ: 440mm // Đường kính: 135mm
  •           Chu vi vành ngực: 840mm. (Chỗ lớn nhất)
  •           Chu vi vành eo: 640mm.
  •       Chu vi vành chân: 690mm // Đường kính trôn: 210mm.                                    

       B – Về màu sắc.

      Thân chóe chia làm 4 phần từ trên xuống: Cổ - vai – thân – chân. Toàn bộ được phủ một lớp men trắng làm nền nhìn rất óng ả, nõn nà như trứng gà luộc bóc vỏ. Họa tiết trên chóe chỉ sử dụng duy nhất màu xanh lam xậm, đôi chỗ cặn mực vẽ bám thành những đốm, vệt xậm đen. Do chỉ có 2 màu trắng-xanh nên cái chóe này được xếp vào dòng đồ: Xanh – Trắng.

       C – Về họa tiết.

        Ngoài một số họa tiết thực vật cách điệu ở các vùng: cổ - vai và chân ra, toàn thân chóe được dành để nói về vòng đời của cây Anh Túc. Mô tả từ khi hoa còn non cho đến khi phát triển thành quả già nứt vỏ lộ hạt (xem hình 01).


Hình 02. Chiều cao từng phần họa tiết: Cổ: 25mm. Vai: 45mm. Bụng: 210mm. Chân: 90mm.      

1 – Phần cổ.

      ·        Phần cổ có vẽ họa tiết cao: 25mm.
·        Cách vành miệng chóe chừng 02mm có vẽ một đường chỉ viền quanh khép kín.
·        Mặt vành cổ có vẽ 4 cụm họa tiết thực vật cách điệu nằm đối xứng nhau.
·        Dưới cùng ở chân cổ là 2 đường tròn khép kín, gồm nhiều đoạn ngắn không liền mạch chồng lấp lên nhau.
·        Mặt trong của cổ chóe để mộc không phủ men, mục đích để tạo độ bám với chân nắp khi đậy vào. Khác hẳn với loại không có nắp, bên trong vành miệng luôn được tráng lớp men để tạo độ thẩm mỹ. Về sau này do độ khó khăn phức tạp khi phải để chừa phần thai cốt ở bên trong vành miệng nên các lò gốm đã cho tráng men tất cả bất kể có nắp hay không, tránh mất thời gian (xem Hình 03).


         Hình 03. Hai cặp hoa văn thực vật cách điệu trên cổ chóe.  Vành miệng trong không phủ men để tạo độ bám với chân nắp. Một việc làm khá tỉ mỉ và khó khăn rất mất thời gian.                                         

2 – Phần vai.

  •  Phần vai có vẽ họa tiết cao: 45mm. 
  •     Từ hai đường viền ở chân cổ của chóe cách ra chừng 10mm có chạy một đường viền vòng tròn khép kín tạo thành hình vành khăn men trăng trên đỉnh vai không vẽ.
  •       Tiếp giáp với chân vành khăn của vai. Họa tiết được thể hiện có hình răng cưa màu xanh lam xậm hướng lên, đan xen với lớp men trắng răng cưa trên đỉnh vai quay xuống. 
  •         Sau khi các họa tiết vẽ xong, lúc đó mới gắn thêm 4 cái mặt bợm vào, phân vai chóe ra làm 4 vùng đối xứng đều nhau. Biểu tượng của sự ổn định, vững chắc và cân bằng âm dương, đại diện cho bốn phương, bốn mùa và các yếu tố thiêng liêng như Tứ linh, Tứ quý. (Google AI) 
  •     Từng mỗi vùng giữa 2 mặt bợm có điểm xuyết 2 tầng yếm trang trí với 3 cái yếm lá trên nằm đè lên 2 yếm bên dưới. Tổng là con số 5 (Xem hình 06). Những con số:  5; 9; 13...v...v... luôn rơi vào cung “Sinh” của vòng đời “Sinh-Lão-Bệnh-Tử”. Biểu thị cho sự phát triển, khởi đầu mới.



Hình 04. Những họa tiết trên vai chóe. Đặc biệt 4 mặt bợm chỉ thấy xuất hiện vào đời nhà Thanh.


Hình 05. Cận cảnh mặt bợm.

 

Hình 06. Họa tiết yếm lá nằm giữa hai mặt bợm. 


3 - Phần bụng chóe: Họa tiết: Lá - hoa và quả cây Anh Túc.

       Phần bụng có vẽ họa tiết cao: 210mm.  

        Dựa vào phần hình họa trên thân chóe cho thấy các nghệ nhân thời xưa làm việc rất nghiêm túc, mọi họa tiết dù có cách điệu vẫn ẩn chứa sự tính toán rất sâu sắc, thuận lý với thiên niên và cuộc sống chứ không phải vẽ bừa cho có. Hãy nghiệm điều này với sự thể hiện qua những họa tiết trên thân chóe.

        i – Lá Anh Túc. Toàn thân chủ yếu vẽ lá Anh Túc có bản diện khá lớn, với cuống trắng đính hai bên thân cây. Chiếm khoảng 70% diện tích bề mặt thân chóe. Tính từ cằm mặt bợm xuống đến đỉnh chóp cánh búp sen.  


                                            
                             Hình 07. Phần thân chóe vẽ lá và thân cây Anh Túc cách điệu.

      ii – Hoa và quả Anh Túc. Trên thân chóe ngoài cành lá ra còn có vẽ thêm về hoa và quả Anh Túc và được chia làm 2 tầng.

·          * Tầng trên: Vẽ 4 đóa hoa. Chia làm hai cặp đồng dạng nằm đối xứng nhau. Một cặp thể hiện hoa non đang nở bung nhiều cánh và một cặp trưởng thành, nhụy đã phát triển thành bầu nhụy (Xem Hình. 08 & 09).


      
                   Hình 08.  Cặp hoa non đang nở bung cánh để lộ nhụy hoa. Nằm đối xứng nhau.

                                  Hình 09. Cặp hoa với cánh đã già để lộ nhụy hoa phát triển thành bầu nhụy.

  

·           * Tầng dưới vẽ cặp hoa lão hóa và quả Anh Túc.

              Tầng dưới vẽ hai cặp hoa nằm đối xứng. Một cặp đã lão hóa chỉ còn lại lá đài. Và một cặp vẽ bốn quả già héo nứt vỏ để lộ hạt (Xem Hình 10&11).


          
      Hình 10. Hai đóa hoa đã già, héo hết cánh còn lại những lá đài và quả bắt đầu tượng hình. 
    

               
      Hình 11. Hình vẽ bốn quả Anh Túc đã già héo, tróc vỏ lộ hạt. (Rất dễ bị nhầm lẫn với quả lựu).

       Lưu ý: Họa tiết trên thân chóe mang chủ đề về vòng đời của cây Anh Túc. Diễn tiến từ hoa đến khi có quả già héo để lộ hat. Vì vậy chùm quả ở đây cũng phải là quả Anh Túc chứ không thể là quả lựu cho được.


4 - Phần chân chóe.

      Phần chân có vẽ họa tiết cao: 90mm.

     Họa tiết ở phần chân chóe. Nghệ nhân đã vẽ 13 cánh sen búp dính liền nhau viền giáp chu vi chân chóe. Dựa theo vòng đời: Sinh – Lão - Bệnh – Tử. Con số 13 ứng vào cửa “Sinh”. Một ẩn dụ về phong thủy thường thấy xuất hiện trong xã hội vùng Đông Á.


 Hình 12. Chân chóe vẽ 13 cánh sen búp nối tiếp nhau liên tục viền quanh chân chóe.
 

5 - Phần trôn chóe:

      Phần dưới trôn chóe không có hiệu đề. Toàn bộ trôn chóe được phủ một lớp men khá dày. Bề mặt có một số mụn cóc và khá nhiều lỗ mọt với nhiều dạng khác nhau. Sát vành chân cho thấy lớp men bám vào thai cốt khá lam nham, có chỗ còn dính những hạt cát kê lót. Ở trung tâm trôn chóe có một số vết rạn hình chân chim. Đây không phải viết nứt cũng như không ảnh hưởng gì đến thai cốt.

    Hình 13. Phần mặt trôn chóe được phủ men. Không có hiệu đề. Trên bề mặt lớp men trôn cho thấy có vết rạn chân chim và có nhiều lỗ mọt.


6 – Bên trong lòng chóe.

     Lớp men tráng trong lòng khá dày. Ở nơi vách và đáy chóe đôi chỗ men đọng lại dày hẳn lên đã xảy ra hiện tượng dúm dó. Trên vách cũng cho thấy những vành nọng đồng tâm của thai cốt ửng lộ dưới lớp men khá rõ (Xem Hình 14).

            

Hình 14. Lớp men tráng trong lòng chóe khá dày cùng những mảng dúm dó của men ở vách và đáy chóe. Trên vách thân chóe cho thấy các vòng nọng thai cốt ửng lộ dưới lớp men.

 

II – Nhận xét.

         1 - Một số hiện tượng xuất hiện trên bề mặt cái chóe.

       Quan sát kỹ sẽ thấy một số hiện tượng xuất hiện trên dưới lớp men và họa tiết trên thân chóe.

     a/ Độ lạnh: Do là phẩm vật to lớn nên thân chóe được cấu tạo khá dày để đảm bảo độ bền chắc đã cho cảm nhận có độ mát dịu nhất định khi áp đôi bàn tay vào thân chóe.

      b/ Bọt khí và một vài hiện tượng trên/dưới lớp men phủ.

      Khi nung sản phẩm ở một nhiệt độ cao, tinh thể đất sét (chất tạo hình thai cốt) nóng chảy kết dính với nhau khiến độ ẩm trong thai cốt bốc hơi biến thành những bọt khí thoát ra chui lẫn vào lớp men phủ đang nóng chảy. Sẽ xảy ra một số trường hợp:

      *     Những bọt khí nhỏ li ti khi thoát ra sẽ chui lẫn vào lớp men phủ đang nóng chảy, không thể thoát ra chúng cùng đọng lại, tạo thành lớp đục lờ mờ. Nhìn nghiêng thấy lần sần như vỏ quả cam (xem Hình 22; 23). 

     *     Một số bọt khí phát triển thành hạt lớn hơn thoát ra bị lớp men phủ đang nóng chảy chặn lại đã đùn lên thành những cái gai (như gai mít) hay mụn cóc, mụn ruồi...v...v...(xem Hình 22, 23).

     *     Một số bọt khí kết tụ với nhau thành hạt to, khi thoát ra gặp độ sôi cao đã nổ gây toác lớp men phủ, cho ra những miệng phễu lớn nhỏ. Có chỗ để lộ cả thai cốt bên dưới nhìn rất rõ (xem Hình 24).

    *     Vuốt khắp thân chóe, có nhiều chỗ sần sùi thô ráp bởi những hạt hoặc mụn cóc nổi cộm trên bề mặt lớp men.      

     c/ Những đốm mực xậm màu. Chất Hồi thanh dùng làm mực vẽ lọc không kỹ còn cặn lợn cợn. Những hạt lợn cợn này sẽ bám lại khi tô vẽ họa tiết (xem Hình 26).

    d/ Hiện tượng co rút của lớp men. Khi lớp men đang nóng chảy gặp chỗ thai cốt có tạp chất hoặc dính dầu. Trường hợp này lớp men khi đang nóng chảy bị mất chân sẽ co rút lại để lộ ra lớp thai cốt (xem Hình 25).

    e/ Hỏa biến. Chuyện này thường xảy ra khi lớp cao lanh của thai cốt còn lẫn tạp chất như: oxit sắt, titan, đồng, hoặc mangan, khi gặp nhiệt độ cao bị tan chảy lẫn vào thai cốt, còn tùy vào lượng tạp chất sẽ cho ra sắc độ. Thường thấy là màu đỏ, hồng, nâu xậm... v...v... Ở vành mộc dưới chân chóe chỗ không phủ men có xảy ra hiện tượng này ở đôi chỗ (xem Hình 19; 20).

    f/ Rạn chân chim. Nơi trôn chóe có xuất hiện một số đường rạn. Đây không phải vết nứt mà chỉ là vết rạn chân chim trên bề mặt lớp men qua quá trình tiếp súc với môi trường thiên nhiên lâu dài không ảnh hưởng gì đến thai cốt bên trong (xem Hình 27).


2 - Khác biệt giữa lá - hoa của Cúc dây và hoa Anh Túc.

          a - Hoa và lá cây Cúc dây:

·        Về hoa. Hoa cúc có nhiều cánh nhỏ và nhiều tầng. 

          * Về lá: Lá hoa Cúc nhỏ, ngắn.


Hình 15. Hình ảnh hoa Cúc dây trên đồ gốm sứ thời nhà Minh. (Nguồn: Google&Allan Chong).


      b - Hoa và lá cây Anh Túc:

  •    Hoa có khoảng 4 đến 6 cánh mỏng manh.
  •    Lá lớn, to bản viền cạnh có nhiều răng cưa lớn.


  Hình 16. Chóe vẽ chủ đề về cây Anh Túc.


     3 – Sự giống và khác nhau về họa tiết cánh sen giữa hai thời Minh-Thanh.

          a/ Đời nhà Minh. Thường vẽ các cánh sen còn búp nên thấy đầu cánh sen sẽ nhọn. Và luôn có khoảng hở ở giữa hai cánh sen. Bên trong cánh sen thời Minh có vẽ thêm họa tiết rất đa dạng (Xem Hình 17). So với cánh sen thời nhà Thanh. Bên trong thể hiện rất đơn giản, chỉ là một chuỗi hạt màu trắng chồng lên nhau theo chiều đứng (xem hình 16; 18).




    

       Hình 17. Ảnh đầu tiên. Cánh sen búp còn tương đối rõ. Nhóm hình sau. Cánh sen đã cách điệu, có khoảng hở giữa vai cánh sen. Bên trong cánh sen luôn có vẽ thêm họa tiết (Nguồn: Allan Chong &Google).


           b/ Giai đoạn đầu nhà Thanh. Vẫn sử dụng họa tiết cánh sen búp có đỉnh nhọn. Nhưng có sự khác biệt ở chỗ vai cánh sen dính lền nhau không để khoảng hở như thời nhà Minh. (Xem hình. 18).


Hình 18. Các vai cánh sen vẽ sát nhau không có khoảng hở ở giữa.

      Điển hình ở cái chóe này. Chân chóe vẫn dùng dáng cách của cánh sen búp nhưng những cánh sen có vai dính liền nhau chứ không vẽ cách xa nhau. Phần trong cánh sen họa tiết cũng đơn giản hóa bằng những chuỗi hạt đứng màu trắng chứ không vẽ phức tạp. Phần thân chóe cũng cho thấy có sự vay mượn dáng cách hoa Cúc dây của nhà Minh cải biên thành vòng đời của cây Anh Túc. Phải chăng ở giai đoạn đầu nhà Thanh chưa có quy chuẩn cho việc tạo hình trang trí trên sản phẩm gốm sứ. Do đó các nhóm thợ gốm quen tay vẫn dùng một số kiểu dáng cũ của thời nhà Minh nhưng đã có phần cải cách.

 

III – Hình ảnh về các hiện tượng xuất hiện trên cái chóe.



Hình 19. Một vài dấu hiệu hỏa biến và cát kê lót bám lại ở chân chóe.


             

       Hình 20. Màu hồng nhạt ửng lên ở phần tiếp giáp giữa lớp men phủ và thai cốt do tạp chất kim loại còn lẫn trong thai cốt khi nung ở nhiệt độ cao tươm ra. Vành thai cốt không phủ men ở chân chóe ánh lên độ óng trầm nhẹ tự nhiên, chứng tỏ độ khô đanh rắn chắc của nó. Hiện tượng này chỉ xảy ra ở những phẩm vật gốm sứ có độ sâu tuổi.



     Hình 21. Một mảng lỗ mọt chi chít trên mặt lớp men ở chân chóe. Hiện tượng này có thể do bề mặt cụm bọt khí, trải qua một thời gian dài bị sự ma sát mài mòn đi nên để lộ các lỗ thâm kim li ti bên dưới.

                  
                                        Hình a.                                                             Hình b.

      Hình 22. Cận cảnh lớp bọt khí đọng lại dưới lớp men phủ. Trên bề mặt cái chóe Anh Túc (Hình a). Và trên bề mặt món đồ sứ thời nhà Minh (Hình b). Chính lớp bọt khí đọng dưới men đã làm cho sắc độ của họa tiết bị đục mờ đi.


     
                                   Hình a                                                                               Hình b.
    Hình 23. Những lớp bọt khi đùn lên chưa đủ sức phát nổ đã đội lớp men phủ cộm lên thành những mụn cóc (Hình a), mụn cám (Hình b) khiến cho mặt da men trở nên sần sùi và thô ráp.


  
      Hình 24. Khi nung ở nhiệt độ cao, độ ẩm tiềm ẩn trong thai cốt bốc hơi thoát ra ngoài tạo thành bọt khí chui lẫn vào lớp men phủ đang nóng chảy. Khi bọt khí li ti tụ lại thành hạt, gặp độ sôi cao sẽ tăng thể tích giãn nở đến độ cực đại và phát nổ, tùy theo kích thước lớn nhỏ sẽ tạo thành khe, rãnh hoặc nổ toác thành miệng phễu. Trên hình cho thấy mép lớp men ở các miệng phễu cuộn lại có độ dày khá cao và để lộ thai cốt.


         Hình 25. Hình ảnh lớp men phủ bị co lộ thai cốt và những lỗ mọt lốm đốm bên cạnh đã bị lớp men khi nóng chảy phủ lấp để lại sẹo lõm.


         Hình 26. Vết lốm đốm xậm màu do chất hồi thanh dùng làm mực vẽ tán lọc chưa kỹ còn sót cặn lợn cợn. Khi lấy mực chất lợn cợn bám vào ngọn bút lông, lúc tô vẽ sẽ dính lại trên mặt họa tiết. Và lớp bọt khí đọng khắp nơi dưới lớp men nhìn rất rõ. Chính lớp bọt này đã làm cho màu lam hồi bị mờ nhạt đi. Cụ Vương Hồng Sển gọi là “lạc tinh”.



           Hình 27.  Bề mặt lớp men phủ ở trôn chóe xuất hiện vết rạn chân chim tự nhiên và các lỗ mọt do bọt khí thoát ra tạo nên.


IV – Kết luận:                               

     Chiếc chóe vẽ cây Anh Túc này được cho vào khoảng giữa Thế kỷ 17 (thời vua Thuận Trị?). Bởi một số yếu tố thường thấy ở những sản phẩm đầu đời nhà Mãn Thanh như sau:

  •         Không có hiệu đề. 
  •         Còn giữ họa tiết đời Minh và họa tiết phân làm nhiều tầng trên sản phẩm.  
  •        Chất hồi thanh dùng làm mực vẽ có màu lam xậm do lọc không kỹ còn sót những hạt vi tế lợn cợn. Lớp cặn này sẽ để lại những vết lốm đốm trên họa tiết khi vẽ. 
  •        Thai cốt chưa đạt độ tinh luyện. Chất cao lanh (Kaolin) xay nghiền chưa được mịn còn hạt vi tế khiến thai cốt vẫn còn ngậm nước và độ xốp nhất định. Khi nung, tế bào xốp và độ ẩm sẽ thoát hơi biến thành bọt khí chui vào lớp men đang nóng chảy, không thoát ra được sẽ đọng lại thành lớp màng đục và khi bọt khí tích tụ thành hạt bị nhiệt tác động tăng thể tích sẽ phát nổ, sinh ra các hiện tượng: Mụn cám, mụn cóc và các lỗ kim, miệng phễu...v...v... 
  •        Hiện tượng hỏa biến. Thai cốt còn lẫn tạp chất kim loại nên khi nung sẽ xảy ra hiện tượng này.      
  •        Khi dùng bàn tay xoa, vuốt trên bề mặt lớp men cho cảm nhận sần sùi thô ráp không min màng. Và có độ mát lạnh nhất định.  

    Cauminhngoc

      26/9/2025 

Lược sử. Dưới thời trị vì của hai vị vua đầu tiên của nhà Mãn Thanh là Hoàng Thái Cực (1636-1643) (Sáng lập) và Thuận Trị (1644-1661). Xã hội Trung Hoa khi này vẫn chưa ổn định hoàn toàn vì vẫn còn các phong trào phản Thanh phục Minh hoạt động. Do đó chính quyền nhà Thanh phải ra sức củng cố ổn định về mọi mặt, từ chính trị cho đến xã hội. Dẫu vậy ở giai đoạn sơ khai này. Nói riêng về ngành nghề gốm sứ cho thấy có sự hồi sinh và phát triển khá tốt sau thời gian dài xuống cấp vì loạn lạc. Ngoài sự kế thừa những gì của nhà Minh để lại. Các nghệ nhân gốm sứ ở giai đoạn đầu của triều đại Mãn Thanh đã tận dụng, khai thác những kỹ thuật chuyên môn về men, tạo hình và bút pháp của các thời trước rồi phát triển thêm. Sự kết hợp giữa phong cách truyền thống với sự sáng tạo đổi mới của các nghệ nhân đã làm cho các sản phẩm gốm sứ thời Thuận Trị trở nên đa dạng và phong phú rất nhiều. Đặc biệt các sản phẩm gốm sứ dưới thời Thuận Trị chưa sử dụng hiệu đề. Rất có thể do tình hình chính trị nên chưa sử dụng. Phải sang đến triều đại vua Khang Hy (1661-1722) mới thấy có hiệu đề trên sản phẩm gốm sứ.