Nhận xét về cái chóe vẽ cây Anh Túc. Khoảng giữa thế kỷ 17.
LTS. Đây là nhận định của một người không chuyên nhưng đam mê thích đào sâu tìm hiểu về những phẩm vật hiện đang lưu giữ trong tay mà người viết thấy rằng cần phải được minh chứng một cách rõ ràng về nguồn gốc cũng như giá trị khảo cứu, tránh những chuyện suy diễn mập mờ vu vơ ảo tưởng không hay. Bài viết này như một bài luận văn, không ngoài mục đích tìm kiếm sự chỉ giáo từ các bậc tri giả chuyên ngành để người viết có dịp trau dồi học hỏi thêm về lãnh vực gốm sứ. Do hiểu biết còn hạn hẹp nên không thể tránh khỏi sự thiếu sót và nông cạn. Rất mong được các bậc trưởng bối và những nhà khảo cứu chuyên ngành bỏ quá đi cho. Xin đa tạ.
***
Hình 01. Chóe vẽ hoa và quả Anh Túc.
I – Về dáng cách tổng quan, màu sắc và
họa tiết.
A – Về dáng cách tổng quan.
- Tên gọi: Chóe. Đã bị mất nắp trước khi thỉnh về. Phần còn lại nguyên lành không tỳ vết.
- Thể loại: Đồ gốm sứ Trung Quốc.
- Chất liệu: Đất Cao lanh nung // Độ dày của thai cốt đo ở vành miệng: 05mm.
- Chiều cao tính từ cổ đến chân: 370mm // Nặng: 4.100gr.
- Họa tiết: Vẽ tay, mô tả vòng đời cây Anh Túc từ hoa đến quả già nứt vỏ lộ hạt.
- Men: Trắng và Xanh lam xậm.
- Chu vi vành cổ: 440mm // Đường kính: 135mm
- Chu vi vành ngực: 840mm. (Chỗ lớn nhất)
- Chu vi vành eo: 640mm.
- Chu vi vành chân: 690mm // Đường kính trôn: 210mm.
B – Về màu sắc.
Thân chóe chia làm 4 phần từ trên xuống: Cổ - vai – thân – chân. Toàn bộ được phủ một lớp men trắng làm nền nhìn rất óng ả, nõn nà như trứng gà luộc bóc vỏ. Họa tiết trên chóe chỉ sử dụng duy nhất màu xanh lam xậm, đôi chỗ cặn mực vẽ bám thành những đốm, vệt xậm đen. Do chỉ có 2 màu trắng-xanh nên cái chóe này được xếp vào dòng đồ: Xanh – Trắng.
C – Về họa tiết.
1 – Phần cổ.
·
Phần cổ có vẽ họa tiết cao: 25mm.
·
Cách vành miệng chóe chừng 02mm có vẽ một đường
chỉ viền quanh khép kín.
· Mặt vành cổ có vẽ 4 cụm họa tiết thực vật cách điệu nằm
đối xứng nhau.
·
Dưới cùng ở chân cổ là 2 đường tròn khép kín, gồm
nhiều đoạn ngắn không liền mạch chồng lấp lên nhau.
·
Mặt trong của cổ chóe để mộc không phủ men, mục
đích để tạo độ bám với chân nắp khi đậy vào. Khác hẳn với loại không có nắp,
bên trong vành miệng luôn được tráng lớp men để tạo độ thẩm mỹ. Về sau này do độ
khó khăn phức tạp khi phải để chừa phần thai cốt ở bên trong vành miệng nên các
lò gốm đã cho tráng men tất cả bất kể có nắp hay không, tránh mất thời gian
(xem Hình 03).
2 – Phần vai.
- Phần vai có vẽ họa tiết cao: 45mm.
- Từ hai đường viền ở chân cổ của chóe cách ra chừng 10mm có chạy một đường viền vòng tròn khép kín tạo thành hình vành khăn men trăng trên đỉnh vai không vẽ.
- Tiếp giáp với chân vành khăn của vai. Họa tiết được thể hiện có hình răng cưa màu xanh lam xậm hướng lên, đan xen với lớp men trắng răng cưa trên đỉnh vai quay xuống.
- Sau khi các họa tiết vẽ xong, lúc đó mới gắn thêm 4 cái mặt bợm vào, phân vai chóe ra làm 4 vùng đối xứng đều nhau. Biểu tượng của sự ổn định, vững chắc và cân bằng âm dương, đại diện cho bốn phương, bốn mùa và các yếu tố thiêng liêng như Tứ linh, Tứ quý. (Google AI)
- Từng mỗi vùng giữa 2 mặt bợm có điểm xuyết 2 tầng yếm trang trí với 3 cái yếm lá trên nằm đè lên 2 yếm bên dưới. Tổng là con số 5 (Xem hình 06). Những con số: 5; 9; 13...v...v... luôn rơi vào cung “Sinh” của vòng đời “Sinh-Lão-Bệnh-Tử”. Biểu thị cho sự phát triển, khởi đầu mới.
3 - Phần bụng chóe: Họa tiết: Lá - hoa và quả cây Anh
Túc.
Phần bụng có vẽ
họa tiết cao: 210mm.
Dựa vào phần
hình họa trên thân chóe cho thấy các nghệ nhân thời xưa làm việc rất nghiêm
túc, mọi họa tiết dù có cách điệu vẫn ẩn chứa sự tính toán rất sâu sắc, thuận
lý với thiên niên và cuộc sống chứ không phải vẽ bừa cho có. Hãy nghiệm điều
này với sự thể hiện qua những họa tiết trên thân chóe.
ii – Hoa và
quả Anh Túc. Trên thân chóe ngoài cành lá ra còn có vẽ thêm về hoa và quả
Anh Túc và được chia làm 2 tầng.
·
* Tầng
trên: Vẽ 4 đóa hoa. Chia làm hai cặp đồng dạng nằm đối xứng nhau. Một cặp
thể hiện hoa non đang nở bung nhiều cánh và một cặp trưởng thành, nhụy đã phát
triển thành bầu nhụy (Xem Hình. 08 & 09).
·
* Tầng
dưới vẽ cặp hoa lão hóa và quả Anh Túc.
Tầng dưới
vẽ hai cặp hoa nằm đối xứng. Một cặp đã lão hóa chỉ còn lại lá đài. Và một cặp
vẽ bốn quả già héo nứt vỏ để lộ hạt (Xem Hình 10&11).
Lưu ý: Họa tiết
trên thân chóe mang chủ đề về vòng đời của cây Anh Túc. Diễn tiến từ hoa đến
khi có quả già héo để lộ hat. Vì vậy chùm quả ở đây cũng phải là quả Anh Túc chứ không thể
là quả lựu cho được.
4 - Phần chân chóe.
Phần chân
có vẽ họa tiết cao: 90mm.
5 - Phần trôn chóe:
Hình 13. Phần mặt
trôn chóe được phủ men. Không có hiệu đề. Trên bề mặt lớp men trôn cho thấy có vết
rạn chân chim và có nhiều lỗ mọt.
6 – Bên trong lòng chóe.
Hình 14. Lớp men tráng trong lòng chóe khá dày cùng những mảng
dúm dó của men ở vách và đáy chóe. Trên vách thân chóe cho thấy các vòng nọng
thai cốt ửng lộ dưới lớp men.
II – Nhận
xét.
1 - Một số hiện
tượng xuất hiện trên bề mặt cái chóe.
Quan sát kỹ sẽ thấy một số hiện tượng xuất hiện
trên dưới lớp men và họa tiết trên thân chóe.
a/ Độ lạnh: Do là
phẩm vật to lớn nên thân chóe được cấu tạo khá dày để đảm bảo độ bền chắc đã cho
cảm nhận có độ mát dịu nhất định khi áp đôi bàn tay vào thân chóe.
b/ Bọt khí và một
vài hiện tượng trên/dưới lớp men phủ.
Khi nung sản phẩm ở một nhiệt độ cao, tinh thể đất sét (chất tạo hình thai cốt) nóng chảy kết dính với nhau khiến độ ẩm trong thai cốt bốc hơi biến thành những bọt khí thoát ra chui lẫn vào lớp men phủ đang nóng chảy. Sẽ xảy ra một số trường hợp:
* Những bọt khí nhỏ li ti khi thoát ra sẽ chui lẫn vào lớp men phủ đang nóng chảy, không thể thoát ra chúng cùng đọng lại, tạo thành lớp đục lờ mờ. Nhìn nghiêng thấy lần sần như vỏ quả cam (xem Hình 22; 23).
* Một số bọt khí phát triển thành hạt lớn hơn thoát ra bị lớp men phủ đang nóng chảy chặn lại đã đùn lên thành những cái gai (như gai mít) hay mụn cóc, mụn ruồi...v...v...(xem Hình 22, 23).
* Một số bọt khí kết tụ với nhau thành hạt to, khi thoát ra gặp độ sôi cao đã nổ gây toác lớp men phủ, cho ra những miệng phễu lớn nhỏ. Có chỗ để lộ cả thai cốt bên dưới nhìn rất rõ (xem Hình 24).
* Vuốt khắp thân chóe, có nhiều chỗ sần sùi thô ráp bởi những hạt hoặc mụn cóc nổi cộm trên bề mặt lớp men.
c/ Những đốm mực xậm màu. Chất Hồi thanh dùng làm mực vẽ lọc không
kỹ còn cặn lợn cợn. Những hạt lợn cợn này sẽ bám lại khi tô vẽ họa tiết (xem Hình
26).
d/ Hiện tượng co
rút của lớp men. Khi lớp men đang nóng chảy gặp chỗ thai cốt có tạp chất hoặc
dính dầu. Trường hợp này lớp men khi đang nóng chảy bị mất chân sẽ co rút lại để
lộ ra lớp thai cốt (xem Hình 25).
e/ Hỏa biến. Chuyện
này thường xảy ra khi lớp cao lanh của thai cốt còn lẫn tạp chất như: oxit
sắt, titan, đồng, hoặc mangan, khi gặp nhiệt độ cao bị tan chảy lẫn vào thai cốt,
còn tùy vào lượng tạp chất sẽ cho ra sắc độ. Thường thấy là màu đỏ, hồng, nâu xậm...
v...v... Ở vành mộc dưới chân chóe chỗ không phủ men có xảy ra hiện tượng này ở
đôi chỗ (xem Hình 19; 20).
f/ Rạn chân chim. Nơi
trôn chóe có xuất hiện một số đường rạn. Đây không phải vết nứt mà chỉ là vết rạn
chân chim trên bề mặt lớp men qua quá trình tiếp súc với môi trường thiên nhiên
lâu dài không ảnh hưởng gì đến thai cốt bên trong (xem Hình 27).
2 - Khác biệt giữa lá - hoa của Cúc dây và hoa Anh Túc.
a - Hoa và lá cây Cúc dây:
· * Về hoa. Hoa cúc có nhiều cánh nhỏ và nhiều tầng.
* Về lá: Lá hoa Cúc nhỏ, ngắn.
b - Hoa và lá cây Anh Túc:
- Hoa có khoảng 4 đến 6 cánh mỏng manh.
- Lá lớn, to bản viền cạnh có nhiều răng cưa lớn.
Hình
16. Chóe vẽ chủ đề về cây Anh Túc.
3 – Sự giống
và khác nhau về họa tiết cánh sen giữa hai thời Minh-Thanh.
Hình 17. Ảnh đầu
tiên. Cánh sen búp còn tương đối rõ. Nhóm hình sau. Cánh sen đã cách điệu, có
khoảng hở giữa vai cánh sen. Bên trong cánh sen luôn có vẽ thêm họa tiết (Nguồn:
Allan Chong &Google).
b/ Giai đoạn đầu
nhà Thanh. Vẫn sử dụng họa tiết cánh sen búp có đỉnh nhọn. Nhưng có sự khác
biệt ở chỗ vai cánh sen dính lền nhau không để khoảng hở như thời nhà Minh.
(Xem hình. 18).
Điển hình ở cái
chóe này. Chân chóe vẫn dùng dáng cách của cánh sen búp nhưng những cánh sen có
vai dính liền nhau chứ không vẽ cách xa nhau. Phần trong cánh sen họa tiết cũng
đơn giản hóa bằng những chuỗi hạt đứng màu trắng chứ không vẽ phức tạp. Phần
thân chóe cũng cho thấy có sự vay mượn dáng cách hoa Cúc dây của nhà Minh cải
biên thành vòng đời của cây Anh Túc. Phải chăng ở giai đoạn đầu nhà Thanh chưa
có quy chuẩn cho việc tạo hình trang trí trên sản phẩm gốm sứ. Do đó các nhóm
thợ gốm quen tay vẫn dùng một số kiểu dáng cũ của thời nhà Minh nhưng đã có phần
cải cách.
III – Hình ảnh về các hiện tượng xuất hiện trên cái chóe.
Hình 19. Một vài dấu hiệu hỏa biến và cát kê lót bám lại ở
chân chóe.
Hình 20. Màu hồng nhạt ửng lên ở phần tiếp giáp giữa lớp men phủ và thai cốt do tạp chất kim loại còn lẫn trong thai cốt khi nung ở nhiệt độ cao tươm ra. Vành thai cốt không phủ men ở chân chóe ánh lên độ óng trầm nhẹ tự nhiên, chứng tỏ độ khô đanh rắn chắc của nó. Hiện tượng này chỉ xảy ra ở những phẩm vật gốm sứ có độ sâu tuổi.
Hình 22. Cận cảnh lớp bọt khí đọng lại dưới lớp men phủ. Trên bề mặt cái chóe Anh Túc (Hình a). Và trên bề mặt món đồ sứ thời nhà Minh (Hình b). Chính lớp bọt khí đọng dưới men đã làm cho sắc độ của họa tiết bị đục mờ đi.
Hình 27. Bề mặt lớp men phủ ở trôn chóe xuất hiện vết
rạn chân chim tự nhiên và các lỗ mọt do bọt khí thoát ra tạo nên.
IV – Kết luận:
Chiếc chóe vẽ cây Anh Túc này được
cho vào khoảng giữa Thế kỷ 17 (thời vua Thuận Trị?). Bởi một số yếu tố thường
thấy ở những sản phẩm đầu đời nhà Mãn Thanh như sau:
- Không có hiệu đề.
- Còn giữ họa tiết đời Minh và họa tiết phân làm nhiều tầng trên sản phẩm.
- Chất hồi thanh dùng làm mực vẽ có màu lam xậm do lọc không kỹ còn sót những hạt vi tế lợn cợn. Lớp cặn này sẽ để lại những vết lốm đốm trên họa tiết khi vẽ.
- Thai cốt chưa đạt độ tinh luyện. Chất cao lanh (Kaolin) xay nghiền chưa được mịn còn hạt vi tế khiến thai cốt vẫn còn ngậm nước và độ xốp nhất định. Khi nung, tế bào xốp và độ ẩm sẽ thoát hơi biến thành bọt khí chui vào lớp men đang nóng chảy, không thoát ra được sẽ đọng lại thành lớp màng đục và khi bọt khí tích tụ thành hạt bị nhiệt tác động tăng thể tích sẽ phát nổ, sinh ra các hiện tượng: Mụn cám, mụn cóc và các lỗ kim, miệng phễu...v...v...
- Hiện tượng hỏa biến. Thai cốt còn lẫn tạp chất kim loại nên khi nung sẽ xảy ra hiện tượng này.
- Khi dùng bàn tay xoa, vuốt trên bề mặt lớp men cho cảm nhận sần sùi thô ráp không min màng. Và có độ mát lạnh nhất định.
Cauminhngoc