Thứ Sáu, 30 tháng 5, 2025

Nhà thơ Phan Lạc Tuyên qua cái nhìn của họa sĩ Tạ Tỵ.

    Nhà thơ Phan Lạc Tuyên qua cái nhìn của họa sĩ Tạ Tỵ.


                                          Trên bản kẽm & in ra giấy.
                              
      Chân dung Phan Lạc Tuyên do họa sĩ Tạ Tỵ khắc bản trên kẽm để minh họa cho bài viết trong tờ báo nội san của đơn vị vào năm 1956.                      
  
    Dựa theo hình ảnh trên bản khắc và in cho thấy họa sĩ Tạ Tỵ có cái nhìn rất tinh tế và sâu sắc. Ông đã mô tả chuyện “lưỡng mục bất đồng” của nhà thơ Phan Lạc Tuyên bằng cách tạo hình hai con ngươi, một lớn và một nhỏ và chúng hơi giãn lệch nhau về phía đuôi mắt. Thật tuyệt.

Sự kết hợp giữa 2 tác phẩm của HS. Tạ Tỵ và nhà thơ Phan Lạc Tuyên.


       Ông Phan Lạc Tuyên cũng cho biết. Chính ông đã tự điêu khắc nổi hình ảnh bàn chân trái lên khối đá bọt và sử dụng khối đá đó làm chân đế cho tác phẩm chân dung của mình do họa sĩ Tạ Tỵ khắc tặng làm kỷ niệm. Ông cũng bày tỏ sự hào hứng với cái tên “Bước chân giang hồ” mà ông đã đặt cho nó.

       Nhà thơ quân đội Phan Lạc Tuyên cũng đã giải thích tại sao ông lại chọn bàn chân trái mà không là bàn chân phải. Theo ông. Chân trái gần như trở thành thói quen đối với một quân nhân. Nó được quy định luôn là động tác căn bản đầu tiên trong chuyển dịch thao diễn quân sự. Điều mà ông đã cùng nó lặn hụp ngay từ khi chân ướt chân ráo bước vào quân trường nơi đào tạo Sĩ quan trừ bị khoá I Quân Đội Quốc Gia Việt Nam. Cũng từ thói quen nhà binh bất dịch này mà ông chọn bàn chân trái làm chủ đề ẩn chứa lý tưởng tung hoành của mình...

     Theo lời Tạ Tỵ. Cả hai vị cũng đã từng cộng tác với nhau một thời gian không lâu trong Tổng cục Chiến tranh Chính trị của Việt Nam Cộng Hòa. Tính huynh đệ chi binh ở mức độ vừa phải không quá thân thiết cũng như không quá xa lạ.

       Sau quá trình giao tiếp nhiều lần, ông mới đồng ý chuyển giao kỷ vật “2 trong 1” này lại cho người viết. 

       Được sở hữu một kỷ vật có sự gắn kết giữa 2 nhân vật tên tuổi trong lịch sử và văn học nghệ thuật ở miền Nam Việt Nam ở vào giữa thế kỷ 20 cũng là một điều thú vị không phải dễ tìm.

 

 

    THAM KHẢO

Theo nguồn WikipediA.

        1 - Phan Lạc Tuyên, sinh năm 1930 tại làng Hữu Bằng, Thạch Thất, Sơn Tây.

     Năm 1951, đang học năm 2 trường Luật Hà Nội, ông được trưng tập vào danh sách đào tạo Sĩ quan trừ bị khoá I Quân Đội Quốc Gia Việt nam. Cùng khóa với ông, có nhiều sĩ quan trẻ, về sau trở thành các tướng lĩnh cao cấp của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như: Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Đức Thắng, Bùi Đình Đạm, Nguyễn Bảo Trị, Chung Tấn Cang, Lê Nguyên Khang... 

   Đại úy Phan Lạc Tuyên, người chỉ huy quân sự số 3 trong cuộc đảo chính của Nguyễn Chánh Thi và Vương Văn Đông vào tháng 11/1960, sau đó đã trở thành người của Mặt trận Giải phóng. Trong cuộc đảo chính trên, ông dẫn vài đại đội Biệt động quân về Sài Gòn tham gia. Sau khi thất bại, ông lưu vong sang Campuchia. Tại đây ông đã được Mặt trận Giải phóng tiếp cận. Năm 1963, ông cùng nhóm Biệt động quân thân cận quay về căn cứ của Mặt trận. Ông sau này ra Bắc, đi học ở Ba Lan, trở thành Tiến sĩ sử học, nghiên cứu văn hóa và Phật học.

 

       2 - Tạ Tỵ, sinh ngày 3 tháng 5 năm 1921, tại Hà Nội.

-        Năm 1943, ông tốt nghiệp tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.

-        Năm 1946, chiến tranh nổ ra giữa Việt Nam và Pháp, Tạ Tỵ cùng với nhiều họa sĩ Việt Nam khác, đã tham gia mặt trận Việt Minh chống Pháp và ông là người thầy dạy mỹ thuật đầu tiên trong Liên khu 3.

-        Bắt đầu từ đầu thập niên 1950, ngoài tài vẽ chân dung hí họa, ông còn sáng tác trên nhiều lĩnh vực khác, như: truyện, thơ, kịch bản, bút ký...

-        Năm 1951, ông triển lãm 60 bức tranh tại Hà Nội.

-        Sau 1954, ông vào Nam và sống ở Sài Gòn. Ở đây ông đã phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa với cấp bậc sau cùng là trung tá trong Tổng cục Chiến tranh Chính trị.

-        Năm 1956, ông triển lãm hơn 60 bức tranh đầu tiên tại Sài Gòn. Năm 1961, ông triển lãm lần thứ hai 60 bức tranh lập thể và trừu tượng cũng ở nơi đó.

-  Vào đầu thập niên 1960, Tạ Tỵ vẽ một loạt 50 chân dung của các nhân vật văn nghệ miền Nam Việt Nam. Đây là loạt tranh chân dung đầu tiên thể hiện những cá nhân độc đáo, trong một phong cách đặc biệt. Sự phối hợp truyền thần và phong cách Lập thể, những mảng màu tương phản gắt gao cắt nhau, nhằm bộc lộ cá tính và nghề nghiệp của nhân vật.

         
Cauminhngoc
31/5/2025                                    

Thứ Năm, 1 tháng 5, 2025

Giới thiệu thanh gươm thời nhà Nguyễn.

      Thanh gươm được cho là có niên đại vào thời Nhà Nguyễn (1804-1945). Chưa thể khẳng định chính xác như thế nào, nhưng nhìn vẻ bên ngoài cho thấy thanh gươm được bảo quản khá tốt và tự thân toát lên vẻ cổ kính rất đáng trân trọng.

                                           




                   I - TỔNG QUÁT .                                         

Hình 01

Hình 02


Mô tả:

-        Thanh gươm tính cả vỏ dài: 755mm. Nặng: 800gram

      -        Thanh gươm không tính vỏ dài: 730mm. Nặng: 500gram 

-        Vỏ gươm nặng: 300gram. 


II – CHI TIẾT.


      A – Lưỡi thép.

         
Hình 3 


Hình 03bis


-        Lưỡi gươm luyện bằng thép dài. 585mm. Không kể hộ thủ và chuôi. Hơi dẻo nếu có lực uốn ngang. 

-        Bản diện lưỡi thép, sát lưỡi hộ thủ rộng: 30mm. Ra giữa còn: 22mm. Trên bản diện có vét một rãnh máu dài: 515mm, ngang: 08mm, chạy dọc theo thân, dừng lại khi cách mũi gươm: 50mmMặt thép cho thấy đã trổ đồi mồi toàn diện.  

-        Sống gươm chỗ sát lưỡi hộ thủ dày: 07mm. Giữa dày: 02mm. Cuối rãnh máu dày: 01mm được tôi luyện mỏng dần về mũi.

-        Chân lưỡi gươm có ốp một yếm đồng, dạng ống dẹp, chiều rộng: 30mm, dài: 20mm. Gáy: 07mm ôm chặt chân gươm.

-        Giữa chân gươm và lưỡi hộ thủ có chèn thêm hai miếng đệm bằng kim loại mỏng, hình quả xoan nằm ép sát nhau có kich thước: Dọc: 32mm. Ngang: 20mm, mục đích chêm cho lưỡi thép vững chắc không bị lỏng lẻo.

-        Lưỡi gươm có dấu hiệu rỉ sét vì lâu ngày nhưng còn rất sắc bén. Khi mài sẽ sạch và sáng lại ngay.

 

    B - Chuôi gươm:



                                                                                
Hình 04

                                                     

Hình 05



Hình 06



    1 - Chuôi gươm: Chuôi gươm được làm bằng sừng, dáng tròn hơi cong giống quả chuối cau. Đường kính: 30mm, thon dần về phía đầu sư còn: 23mm. Chiều dài kể cả lưỡi hộ thủ là: 145mm. Trừ yếm hai đầu. cán sừng còn dài khoảng: 73mm.

2      - Chất sừng ở chuôi có dấu hiệu khô đanh để lộ ra những gân chỉ chạy dọc theo chuôi. Mặt sừng lỳ không bóng, có độ nhám nhẹ không nhẵn mịn.

3      - Sắc độ trên thân chuôi gươm có sắc độ không đều. Màu trên sống xậm hơn so với phần dạ chuôi. Tổng thể màu sắc của chuôi gươm tương cận với màu gỗ nâu gụ của vỏ gươm.

4      - Trên sống chuôi có một rãnh nứt hở rộng cỡ: 01mm, dài: 30mm, hai mép hơi cộm lên.    

5      - Đốc gươm có yểm một yếm (mũ) đồng khối rỗng, đúc hình đầu sư chạm trổ rất tinh xảo. Kích thước: Cao: 43mm, dọc từ mũi con sư đến gáy: 35mm, ngang hai bên má con sư: 23mm. Cổ con sư chố tiếp giáp với chuôi sừng có đường kính: 22mm

6      - Một đai ống tròn nằm sát lưỡi hộ thủ ôm chân chuôi kiếm, nở đầu thon đuôi. Có đường kính đầu: 33mm. Đuôi: 30mm. Dài: 27mm. Giữa thân đai có lận gân nổi chia ống làm hai phần. Trước dài: 15mm. Sau dài: 12mm. Đai yểm chân chuôi gươm có mục đích giữ cho chuôi và lưỡi gươm thêm chắc chắn.

 

C – Hộ thủ:

   Phần hộ thủ là một lá đồng nhìn như một cái lưỡi, giống hình chữ “L” lật ngửa, ngăn giữa lưỡi thép và chuôi có độ dày: 02mm. Mục đích để bảo vệ cho bàn tay. Lưỡi hộ thủ chia làm 2 phần chính:

-        Phần thứ nhất tính từ chóp lưỡi xuống đến chỗ đáy cong dài: 125mm.

     -    Phần thứ hai từ đáy cong lượn đến cằm con sư dài: 110mm.

   

Hình 07

    Hình 07bis



         a/ Phần thứ nhất được phân làm 3 đoạn: Đầu, giữa và chân.

-        Đoạn đầu tính từ chỏm lưỡi đến sống gươm, cao: 50mm. Tiết diện nhỏ đầu rồi nở đều về giữa, bề ngang lớn nhất là: 35mm và đầu hơi cong nhẹ về phía mũi gươm. Tiền diện hướng mũi gươm để trơn. Hậu diện hướng về đốc kiếm có chạm hoa văn chìm.  

-        Đoạn giữa từ sống trên xuống đáy bụng lưỡi có chiều cao cỡ: 33mm, bề ngang là: 40mm. Nơi đây có khoét một cái lỗ để tra chân lưỡi gươm chui qua và cắm vào chuôi sừng.

-        Đoạn chân. Đoạn này tính từ dạ lưỡi gươm đến ngay chỗ cong cao: 42mm. Bề ngang chỗ cong là: 30mm.

 

     b/ Phần thứ hai, tính từ góc cong đến cằm đầu sư dài: 110mm. Đây là một lá đồng dài, bề ngang ngay góc cong: 30mm. Từ đây được bóp nhỏ dần xuôi về phía sau gắn vào cằm con sư chỉ còn: 07mm, tạo thành một vành cung. Mặt bên ngoài có khắc hoa văn chìm. Mé bên trong để trơn. 

  

D – Vỏ gươm.


Hình 08


                             
Hình 09

                     

  Vỏ gươm được chế tác bằng 2 thanh gỗ quý ốp lại. Vành miệng: 40mm x 20mm, rỗng ruột để tra lưỡi gươm vào. Gỗ có màu nâu gụ đã lên nước bóng và ửng nhiều vân gỗ tự nhiên. Trên thân vỏ có một yếm yểm miệng vỏ, một yếm yểm mũi vỏ và 2 đai đồng giữ cho vỏ gươm dính cứng vào nhau.

  a/ Yếm đồng yểm miệng vỏ gươm làm bằng đồng để trơn dài: 60mm, ngang: 35mm. Sát miệng vỏ có viền 2 gân nổi và phía dưới chân có tạo hình gợn sóng.

  b/ Đai thứ nhất nằm ở giữa vỏ gươm dài: 60mm, ngang: 35mm. Hai đầu miệng có tạo hình gợn sóng ngậm vỏ gươm.

  c/ Đai thứ hai nằm sát yếm yểm mũi vỏ dài cỡ: 25mm, ngang: 30mm. Hai đầu đai đều tạo hình gợn sóng.

   d/ Trên yếm yểm miệng vỏ và hai đai thân vỏ, trên sống mỗi thứ đều làm nhô lên một cái kỳ có chiều dài tương ứng với chiều dài của yếm hoặc đai, trên mỗi kỳ đều được khoét một lỗ nhỏ có đính khoen đồng để móc dây đeo.

  e/ Yếm yểm mũi vỏ gươm làm bằng đồng dạng sừng mũi nhọn dài: 145mm. Bề ngang miệng: 32mm, có thiết kế 4 lá ngậm thân vỏ. Toàn thân yếm chạm vảy cá xuôi ngược nằm song song sát nhau, 



III - LÝ LỊCH.

Lý lịch thanh gươm.



Cauminhngoc

20/4/2025