Thứ Sáu, 30 tháng 5, 2025

Nhà thơ Phan Lạc Tuyên qua cái nhìn của họa sĩ Tạ Tỵ.

    Nhà thơ Phan Lạc Tuyên qua cái nhìn của họa sĩ Tạ Tỵ.


                                          Trên bản kẽm & in ra giấy.
                              
      Chân dung Phan Lạc Tuyên do họa sĩ Tạ Tỵ khắc bản trên kẽm để minh họa cho bài viết trong tờ báo nội san của đơn vị vào năm 1956.                      
  
    Dựa theo hình ảnh trên bản khắc và in cho thấy họa sĩ Tạ Tỵ có cái nhìn rất tinh tế và sâu sắc. Ông đã mô tả chuyện “lưỡng mục bất đồng” của nhà thơ Phan Lạc Tuyên bằng cách tạo hình hai con ngươi, một lớn và một nhỏ và chúng hơi giãn lệch nhau về phía đuôi mắt. Thật tuyệt.

Sự kết hợp giữa 2 tác phẩm của HS. Tạ Tỵ và nhà thơ Phan Lạc Tuyên.


       Ông Phan Lạc Tuyên cũng cho biết. Chính ông đã tự điêu khắc nổi hình ảnh bàn chân trái lên khối đá bọt và sử dụng khối đá đó làm chân đế cho tác phẩm chân dung của mình do họa sĩ Tạ Tỵ khắc tặng làm kỷ niệm. Ông cũng bày tỏ sự hào hứng với cái tên “Bước chân giang hồ” mà ông đã đặt cho nó.

       Nhà thơ quân đội Phan Lạc Tuyên cũng đã giải thích tại sao ông lại chọn bàn chân trái mà không là bàn chân phải. Theo ông. Chân trái gần như trở thành thói quen đối với một quân nhân. Nó được quy định luôn là động tác căn bản đầu tiên trong chuyển dịch thao diễn quân sự. Điều mà ông đã cùng nó lặn hụp ngay từ khi chân ướt chân ráo bước vào quân trường nơi đào tạo Sĩ quan trừ bị khoá I Quân Đội Quốc Gia Việt Nam. Cũng từ thói quen nhà binh bất dịch này mà ông chọn bàn chân trái làm chủ đề ẩn chứa lý tưởng tung hoành của mình...

     Theo lời Tạ Tỵ. Cả hai vị cũng đã từng cộng tác với nhau một thời gian không lâu trong Tổng cục Chiến tranh Chính trị của Việt Nam Cộng Hòa. Tính huynh đệ chi binh ở mức độ vừa phải không quá thân thiết cũng như không quá xa lạ.

       Sau quá trình giao tiếp nhiều lần, ông mới đồng ý chuyển giao kỷ vật “2 trong 1” này lại cho người viết. 

       Được sở hữu một kỷ vật có sự gắn kết giữa 2 nhân vật tên tuổi trong lịch sử và văn học nghệ thuật ở miền Nam Việt Nam ở vào giữa thế kỷ 20 cũng là một điều thú vị không phải dễ tìm.

 

 

    THAM KHẢO

Theo nguồn WikipediA.

        1 - Phan Lạc Tuyên, sinh năm 1930 tại làng Hữu Bằng, Thạch Thất, Sơn Tây.

     Năm 1951, đang học năm 2 trường Luật Hà Nội, ông được trưng tập vào danh sách đào tạo Sĩ quan trừ bị khoá I Quân Đội Quốc Gia Việt nam. Cùng khóa với ông, có nhiều sĩ quan trẻ, về sau trở thành các tướng lĩnh cao cấp của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như: Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Đức Thắng, Bùi Đình Đạm, Nguyễn Bảo Trị, Chung Tấn Cang, Lê Nguyên Khang... 

   Đại úy Phan Lạc Tuyên, người chỉ huy quân sự số 3 trong cuộc đảo chính của Nguyễn Chánh Thi và Vương Văn Đông vào tháng 11/1960, sau đó đã trở thành người của Mặt trận Giải phóng. Trong cuộc đảo chính trên, ông dẫn vài đại đội Biệt động quân về Sài Gòn tham gia. Sau khi thất bại, ông lưu vong sang Campuchia. Tại đây ông đã được Mặt trận Giải phóng tiếp cận. Năm 1963, ông cùng nhóm Biệt động quân thân cận quay về căn cứ của Mặt trận. Ông sau này ra Bắc, đi học ở Ba Lan, trở thành Tiến sĩ sử học, nghiên cứu văn hóa và Phật học.

 

       2 - Tạ Tỵ, sinh ngày 3 tháng 5 năm 1921, tại Hà Nội.

-        Năm 1943, ông tốt nghiệp tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.

-        Năm 1946, chiến tranh nổ ra giữa Việt Nam và Pháp, Tạ Tỵ cùng với nhiều họa sĩ Việt Nam khác, đã tham gia mặt trận Việt Minh chống Pháp và ông là người thầy dạy mỹ thuật đầu tiên trong Liên khu 3.

-        Bắt đầu từ đầu thập niên 1950, ngoài tài vẽ chân dung hí họa, ông còn sáng tác trên nhiều lĩnh vực khác, như: truyện, thơ, kịch bản, bút ký...

-        Năm 1951, ông triển lãm 60 bức tranh tại Hà Nội.

-        Sau 1954, ông vào Nam và sống ở Sài Gòn. Ở đây ông đã phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa với cấp bậc sau cùng là trung tá trong Tổng cục Chiến tranh Chính trị.

-        Năm 1956, ông triển lãm hơn 60 bức tranh đầu tiên tại Sài Gòn. Năm 1961, ông triển lãm lần thứ hai 60 bức tranh lập thể và trừu tượng cũng ở nơi đó.

-  Vào đầu thập niên 1960, Tạ Tỵ vẽ một loạt 50 chân dung của các nhân vật văn nghệ miền Nam Việt Nam. Đây là loạt tranh chân dung đầu tiên thể hiện những cá nhân độc đáo, trong một phong cách đặc biệt. Sự phối hợp truyền thần và phong cách Lập thể, những mảng màu tương phản gắt gao cắt nhau, nhằm bộc lộ cá tính và nghề nghiệp của nhân vật.

         
Cauminhngoc
31/5/2025                                    

Thứ Năm, 1 tháng 5, 2025

Giới thiệu thanh gươm thời nhà Nguyễn.

      Thanh gươm được cho là có niên đại vào thời Nhà Nguyễn (1804-1945). Chưa thể khẳng định chính xác như thế nào, nhưng nhìn vẻ bên ngoài cho thấy thanh gươm được bảo quản khá tốt và tự thân toát lên vẻ cổ kính rất đáng trân trọng.

                                           




                   I - TỔNG QUÁT .                                         

Hình 01

Hình 02


Mô tả:

-        Thanh gươm tính cả vỏ dài: 755mm. Nặng: 800gram

      -        Thanh gươm không tính vỏ dài: 730mm. Nặng: 500gram 

-        Vỏ gươm nặng: 300gram. 


II – CHI TIẾT.


      A – Lưỡi thép.

         
Hình 3 


Hình 03bis


-        Lưỡi gươm luyện bằng thép dài. 585mm. Không kể hộ thủ và chuôi. Hơi dẻo nếu có lực uốn ngang. 

-        Bản diện lưỡi thép, sát lưỡi hộ thủ rộng: 30mm. Ra giữa còn: 22mm. Trên bản diện có vét một rãnh máu dài: 515mm, ngang: 08mm, chạy dọc theo thân, dừng lại khi cách mũi gươm: 50mmMặt thép cho thấy đã trổ đồi mồi toàn diện.  

-        Sống gươm chỗ sát lưỡi hộ thủ dày: 07mm. Giữa dày: 02mm. Cuối rãnh máu dày: 01mm được tôi luyện mỏng dần về mũi.

-        Chân lưỡi gươm có ốp một yếm đồng, dạng ống dẹp, chiều rộng: 30mm, dài: 20mm. Gáy: 07mm ôm chặt chân gươm.

-        Giữa chân gươm và lưỡi hộ thủ có chèn thêm hai miếng đệm bằng kim loại mỏng, hình quả xoan nằm ép sát nhau có kich thước: Dọc: 32mm. Ngang: 20mm, mục đích chêm cho lưỡi thép vững chắc không bị lỏng lẻo.

-        Lưỡi gươm có dấu hiệu rỉ sét vì lâu ngày nhưng còn rất sắc bén. Khi mài sẽ sạch và sáng lại ngay.

 

    B - Chuôi gươm:



                                                                                
Hình 04

                                                     

Hình 05



Hình 06



    1 - Chuôi gươm: Chuôi gươm được làm bằng sừng, dáng tròn hơi cong giống quả chuối cau. Đường kính: 30mm, thon dần về phía đầu sư còn: 23mm. Chiều dài kể cả lưỡi hộ thủ là: 145mm. Trừ yếm hai đầu. cán sừng còn dài khoảng: 73mm.

2      - Chất sừng ở chuôi có dấu hiệu khô đanh để lộ ra những gân chỉ chạy dọc theo chuôi. Mặt sừng lỳ không bóng, có độ nhám nhẹ không nhẵn mịn.

3      - Sắc độ trên thân chuôi gươm có sắc độ không đều. Màu trên sống xậm hơn so với phần dạ chuôi. Tổng thể màu sắc của chuôi gươm tương cận với màu gỗ nâu gụ của vỏ gươm.

4      - Trên sống chuôi có một rãnh nứt hở rộng cỡ: 01mm, dài: 30mm, hai mép hơi cộm lên.    

5      - Đốc gươm có yểm một yếm (mũ) đồng khối rỗng, đúc hình đầu sư chạm trổ rất tinh xảo. Kích thước: Cao: 43mm, dọc từ mũi con sư đến gáy: 35mm, ngang hai bên má con sư: 23mm. Cổ con sư chố tiếp giáp với chuôi sừng có đường kính: 22mm

6      - Một đai ống tròn nằm sát lưỡi hộ thủ ôm chân chuôi kiếm, nở đầu thon đuôi. Có đường kính đầu: 33mm. Đuôi: 30mm. Dài: 27mm. Giữa thân đai có lận gân nổi chia ống làm hai phần. Trước dài: 15mm. Sau dài: 12mm. Đai yểm chân chuôi gươm có mục đích giữ cho chuôi và lưỡi gươm thêm chắc chắn.

 

C – Hộ thủ:

   Phần hộ thủ là một lá đồng nhìn như một cái lưỡi, giống hình chữ “L” lật ngửa, ngăn giữa lưỡi thép và chuôi có độ dày: 02mm. Mục đích để bảo vệ cho bàn tay. Lưỡi hộ thủ chia làm 2 phần chính:

-        Phần thứ nhất tính từ chóp lưỡi xuống đến chỗ đáy cong dài: 125mm.

     -    Phần thứ hai từ đáy cong lượn đến cằm con sư dài: 110mm.

   

Hình 07

    Hình 07bis



         a/ Phần thứ nhất được phân làm 3 đoạn: Đầu, giữa và chân.

-        Đoạn đầu tính từ chỏm lưỡi đến sống gươm, cao: 50mm. Tiết diện nhỏ đầu rồi nở đều về giữa, bề ngang lớn nhất là: 35mm và đầu hơi cong nhẹ về phía mũi gươm. Tiền diện hướng mũi gươm để trơn. Hậu diện hướng về đốc kiếm có chạm hoa văn chìm.  

-        Đoạn giữa từ sống trên xuống đáy bụng lưỡi có chiều cao cỡ: 33mm, bề ngang là: 40mm. Nơi đây có khoét một cái lỗ để tra chân lưỡi gươm chui qua và cắm vào chuôi sừng.

-        Đoạn chân. Đoạn này tính từ dạ lưỡi gươm đến ngay chỗ cong cao: 42mm. Bề ngang chỗ cong là: 30mm.

 

     b/ Phần thứ hai, tính từ góc cong đến cằm đầu sư dài: 110mm. Đây là một lá đồng dài, bề ngang ngay góc cong: 30mm. Từ đây được bóp nhỏ dần xuôi về phía sau gắn vào cằm con sư chỉ còn: 07mm, tạo thành một vành cung. Mặt bên ngoài có khắc hoa văn chìm. Mé bên trong để trơn. 

  

D – Vỏ gươm.


Hình 08


                             
Hình 09

                     

  Vỏ gươm được chế tác bằng 2 thanh gỗ quý ốp lại. Vành miệng: 40mm x 20mm, rỗng ruột để tra lưỡi gươm vào. Gỗ có màu nâu gụ đã lên nước bóng và ửng nhiều vân gỗ tự nhiên. Trên thân vỏ có một yếm yểm miệng vỏ, một yếm yểm mũi vỏ và 2 đai đồng giữ cho vỏ gươm dính cứng vào nhau.

  a/ Yếm đồng yểm miệng vỏ gươm làm bằng đồng để trơn dài: 60mm, ngang: 35mm. Sát miệng vỏ có viền 2 gân nổi và phía dưới chân có tạo hình gợn sóng.

  b/ Đai thứ nhất nằm ở giữa vỏ gươm dài: 60mm, ngang: 35mm. Hai đầu miệng có tạo hình gợn sóng ngậm vỏ gươm.

  c/ Đai thứ hai nằm sát yếm yểm mũi vỏ dài cỡ: 25mm, ngang: 30mm. Hai đầu đai đều tạo hình gợn sóng.

   d/ Trên yếm yểm miệng vỏ và hai đai thân vỏ, trên sống mỗi thứ đều làm nhô lên một cái kỳ có chiều dài tương ứng với chiều dài của yếm hoặc đai, trên mỗi kỳ đều được khoét một lỗ nhỏ có đính khoen đồng để móc dây đeo.

  e/ Yếm yểm mũi vỏ gươm làm bằng đồng dạng sừng mũi nhọn dài: 145mm. Bề ngang miệng: 32mm, có thiết kế 4 lá ngậm thân vỏ. Toàn thân yếm chạm vảy cá xuôi ngược nằm song song sát nhau, 



III - LÝ LỊCH.

Lý lịch thanh gươm.



Cauminhngoc

20/4/2025





Thứ Năm, 3 tháng 4, 2025

Thử tìm hiểu thanh gươm chạm rồng, cán ngà. Thời Lê - Trịnh?

          THỬ TÌM HIỂU THANH GƯƠM CHẠM RỒNG, CÁN NGÀ. THỜI LÊ - TRỊNH?

                                      (Hắc Long Gươm cán ngà)

                    Cauminhngoc lưu giữ và lần đầu tiên công bố.

LTS. Đây là bài viết của người đam mê tìm hiểu. Tất cả nhận định đều mang tính suy diễn chủ quan nên sẽ có rất nhiều thiếu sót. Rất mong được lượng thứ. 


 
 
Lý lịch thanh kiếm cán ngà có chạm rồng.


      Tham khảo:  

  Theo như nhà nghiên cứu David Mickov thì có sự khác biệt giữa kiếm () gươm () như sau: 

1 - Kiếm ()

  • Thiết kế: Lưỡi dao thẳng, hai lưỡi
  • Vai trò: Chiến đấu, vũ khí nghi lễ, biểu tượng địa vị


2 - Gươm ().

  • Thiết kế lưỡi dao: Lưỡi dao cong nhẹ, hẹp, một cạnh. Mặt cắt ngang có thể có gờ, nêm hoặc có hệ thống rãnh/rãnh. 
  • Vỏ kiếm: Nhọn, gợi nhớ đến thời nhà Minh Trung Quốc
  • Phụ kiện: Thường bao gồm thanh chắn tròn hoặc hình chữ nhật và vòng đệm hình bầu dục—tương tự như kiếm Nhật. 
  • Vai trò: Chiến đấu, vũ khí nghi lễ.  

                                                                      (Nguồn Swordis. Kiếm Việt Nam)                                                                                 

       Nhà nghiên cứu về kiếm học David Mickov đã phân định rất rõ ràng thế nào gọi là KIẾM, thế nào gọi là GƯƠM rất rạch ròi giúp chúng ta không bị nhầm lẫn. 

      Dựa vào tiêu chuẩn có lý của David Mickov, đồng thời thấy rằng thanh dao cán ngà này cũng có thân dáng hơi uốn lượn như lá liễu và chỉ một cạnh bén cùng một vài chi tiết tương cận khác. Vì vậy người viết cho rằng thanh dao chuôi ngà này phải gọi là GƯƠM () là thuận lý. 

Cauminhngoc

07/5/2025.

 

        I – TỔNG QUÁT.   

        Nhìn tổng quát bên ngoài thanh gươm. Ngoài sắc diện chuôi ngà có màu nâu xậm, còn lại thanh gươm gần như là một màu đen tuyền. Có vẻ như vỏ thanh gươm đã được phủ lên một lớp sơn then truyền thống.  
        Thanh gươm cũng cho thấy đã trải qua nhiều thế hệ con người chuyền tay lưu giữ bảo quản trong môi trường xã hội tự nhiên chứ không phải được đào lên từ một di chỉ. Dựa vào những dấu hiệu hủy hoại tiệm tiến của khí hậu nóng ẩm nhiệt đới cùng sự tác động vật lý của con người hiển lộ lên bề mặt vật chất của thanh gươm. Tất cả đã nói lên một phần nào về độ tuổi rất cao của thanh gươm, có thể tính bằng đơn vị hàng trăm năm chứ không ít.
     Thanh gươm vẫn được giữ nguyên trạng như khi thỉnh về, chưa có động chạm gì gì ngoài chuyện lau chùi sơ qua.   


                                                      
Hình 01.



Hình 02.

          

                                                                        Hình 02bis.

Thông số căn bản của thanh gươm: 
    
     *       Nhìn tổng thể thanh gươm có màu gần như đen tuyền.

·                      Dáng cong nhẹ như lá liễu, vểnh mũi và đuôi hơi quắp xuống.

·                       Chiều dài tổng thể còn nằm trong vỏ:  840mm. Nặng: 1.000gram.

·                     Chiều dài không vỏ, tính từ đỉnh đốc đến chóp mũi: 745mm. Nặng: 800gram.

·                    Vỏ gươm dài: 657mm. Nặng: 200gram.

·                       Chuôi gươm được làm bằng ngà voi đã xuống màu nâu đen.

            *  Điểm cân bằng là: 250mm, tính từ đốc chuôi đi về phía mũi gươm.

          

        Đặc biệt: Hình ảnh "con rồng" được chạm trên yếm đồng yểm miệng vỏ và yếm đồng yểm chân chuôi gươm.


Hình 3.



II - CHI TIẾT 

         A – LƯỠI GƯƠM.

1 – Lưỡi dao.

-   Lưỡi dao khá dày được luyện bằng thép có dáng hơi cong nhẹ lên về phía mũi. Toàn thân dài: 580mm. Phần sắc bén bên dưới lưỡi dao gọi là Hạ nhận (下刃).   

 -    Phần sống dao ở sát đĩa hộ thủ dày: 08mm, giữa: 06mm.  Trên sống dao, sau phần yếm yểm chân lưỡi dao có vét 2 rãnh máu dài: 390mm. Ngay cuối rãnh máu sống gươm dày: 05mm. Bắt đầu từ rãnh máu sống gươm lưỡi dao được vát mỏng đều hai bên cho đến mũi để tạo độ bén. Gọi là Thượng nhận (上刃), dài: 190mmDày: 40mm. Chóp mũi dày: 02mm.       

-    Bề rộng bản diện lưỡi dao chỗ sát với đĩa hộ thủ là: 35mm. Ra giữa là 30mm, cuối rãnh máu là: 20mm rồi vát dần về phía mũi. 

-   Trên bản diện lưỡi dao có vét 3 rãnh máu. Rãnh trên cùng dài: 495mm, rộng: 02mm. Rãnh giữa dài: 460mm, rộng: 07mm. Rãnh chỉ nằm sát dưới rãnh giữa dài: 460mm. Ở đoạn cuối này rãnh chỉ kết hợp với mũi rãnh giữa tạo thành "vân gươm" có hình xà mâu dài: 40mm, bề ngang: 02mm. Đầu "vân gươm" cách mũi dao: 50mm.

-   Trên bản diện lưỡi dao nếu soi kỹ sẽ thấy có những sớ thép hiện lên giống như sớ gỗ và khá nhiều nơi trên thân dao bị rỉ sét ăn khuyết khá sâu thành từng mảng, hiện tượng này cho thấy độ tuổi của thanh gươm phải được tính bằng đơn vị trăm năm...

 -   Cạnh sắc dưới của dao (Hạ nhận) đôi chỗ bị mẻ nhẹ nhưng vẫn không làm mất đi độ bén ngót của nó.


               

Hình 04.



Hình 05.



Hình 06

 

2      –  Đai yểm chân lưỡi gươm.

      Phần chân gươm sát với đĩa kiếm cách có yểm một yếm đồng dạng ống dẹt, dài cỡ: 30mm. Rộng: 35mm. Dày: 08mm. Vành miệng ngoài chỗ ngậm lưỡi gươm có chạm viền hoa văn. Nơi cạnh ở phần sống thanh gươm bị mẻ nhẹ.

Hình 07. 


3      –  Lá đồng chèn chân lưỡi gươm,

    Giữa chân lưỡi gươm và đĩa hộ thủ có chèn một lá kim loại đồng mỏng hình quả trám đã xuống màu gần như đen. Chu vi quả trám được bấm viền răng cưa. Kích thước: Chiều dọc: 38mm. chiều ngang: 28mm.  Mục đích của lá đồng này là để giữ cho thân gươm luôn được gắn kết chắc chắn với chuôi. 


Hình 08


B – HỘ THỦ (Tsuba):

    Hộ thủ của thanh gươm là một đĩa đồng hình quả trám đã xuống màu vàng ám khói. Đường kính ngang: 55mm. Đk dọc: 65mm. Dày: 05mm. Bản diện trước, sau để trơn không trang trí hay chạm khắc gì ngoài một rãnh chỉ vét chìm chạy viền giáp vòng chu vi đĩa và lấn vào trong chừng: 01mm.

           Mục đích của hộ thủ là để giới hạn không cho lưỡi gươm chui quá sâu vào thân vỏ, đồng thời giúp bảo vệ cho bàn tay không bị trôi, tuột vào lưỡi bén (Hạ nhận). Nó còn có tác dụng ngăn chặn không cho binh khí của đối phương chém vào bàn tay khi giao chiến. 


  
Hình. 9.


C – CHUÔI GƯƠM. 

 Gồm có 3 phần: Chuôi ngà tổng quát, phụ kiện và màu sắc.

        1-        CHUÔI NGÀ:

-                       Chuôi gươm là một khối ngà đặc được tạo hình thon đầu nở đuôi. Lưng hơi vồng lên cùng hướng với sống kiếm. Phần bụng vét hóp lại để tạo dáng cong cho tổng thể, nhìn giống như quả cà tím. Chuôi gươm không tròn hẳn mà hơi dẹt hai bên má cho đường kính: 30mm. Trên bề mặt chuôi ngà xuất hiện rải rác nhiều rãnh nứt ngắn dài chạy dọc theo thân. Phía mỏm đầu chuôi (đốc) gươm cho thấy bị sứt mẻ lệch hẳn về bên phải dài khoảng 30mm. Phần bên trái chi bị xây xước nhẹ và mòn lằn xuôi về đốc gươm. Chiều dài chuôi không tính hộ thủ: 155mm. Đường kính cổ chuôi: 32mm, giữa: 34mm, gần đốc gươm: 37mm.

               Thông thường ở những thanh gươm hoặc kiếm khác, hầu hết ở phần đầu chuôi (đốc chuôi) thường có yểm một cái mũ bằng kim loại, mục đích để bảo vệ đốc không bị toác khi va đập, ngăn giữ thanh gươm, kiếm không bị tuột khỏi bàn tay khi được rút ra khỏi vỏ. Riêng ở thanh gươm cán ngà chạm rồng này ở đốc gươm không thấy có phần mũ đó mà chỉ thấy trơ ra một cùi ngà đặc bị sứt mẻ lam nham khá nặng. Quan sát kỹ. Ngay đỉnh đầu chuôi (đốc chuôi) ngoài những chuyện bị sứt mẻ trầm trọng còn có thấy một lỗ tròn đường kính khoảng: 05mm lặn sâu vào thân chuôi ngà. Bên ngoài vòng tròn chất ngà còn rất cứng nhưng bên trong lõi lỗ tròn, chất liệu rất giòn. mủn có thể moi sâu vào trong dễ dàng (Đã thử moi sâu vào bên trong chừng 02mm. Hiện trang cho thấy cái lỗ tròn rất rõ). Không hiểu đây có phải là dấu vết thanh lõi kim loại của cái mũ đốc gươm đã gắn vào thân chuôi ngà không hay là lỗ tự nhiên của thỏi ngà?

Hình 10.



Hình 11.



Hình 12.

    
Hình 13.


    
Hình 14.
  

2      PHỤ KIỆN TRÊN CHUÔI NGÀ:

  a - Yếm đồng yểm chân chuôi gươm.

-  - Phần chân chuôi gươm sát với đĩa kiếm cách được bọc bởi một yếm đồng dạng ống dài ra đến giữa chuôi. Phần đầu yếm có đường kính: 32mm. Giữa: 35mm

         Hiên trạng cho thấy yếm yểm chân chuôi nằm sát đĩa hộ thủ, tương đối vẫn giữ được vóc dáng ban đầu. Còn phần ở giữa thân chuôi chỉ còn trơ một vành miệng sứt mẻ lam nham giáp vòng cho thấy đã bị gãy mất khá nhiều. Có thể nói rằng đây là hậu quả bởi lực cầm nắm thường xuyên của bàn tay tác động mạnh vào, khiến cho lớp yếm đồng mỏng bị mài mòn dần dẫn đến chuyện móp méo mà gãy mất đi. Chỗ còn lại dài nhất phía trên lưng không kể đai khoen chân chuôi đo được: 60mm, dưới bụng: 40mm.

 -  Đặc biệt: Trên bề mặt yếm đồng yểm chân chuôi gươm có chạm khắc hình ảnh "con rồng" nhưng do trải qua thời gian dài hàng vài thế kỷ bị ten bám và sứt mẻ quá nặng hầu như hơn một nửa nên chỉ còn thấy dáng vẻ loáng thoáng, không còn trọn vẹn.

    -   Yếm đồng yểm chân chuôi gươm trải qua một thời gian hàng vài trăm năm bề mặt bị lão hóa đã hình thành nên một lớp ten có ánh sắc màu đen xám bao trùm giống như một lớp da (lớp patina tự nhiên theo thời gian). Hiện trạng cho thấy lớp da trên bề mặt yếm này đôi chỗ đã bị dộp rụng mất từng mảng lớn nhỏ không đều để lộ ra mặt đồng bên dưới có màu nâu xám nhẹ. Hiện tượng bị dộp để lại những viền khoang nhìn thấy rất rõ, không phải do ma sát làm mòn thường để lại độ mịn và láng đều liền mặt.


Hình 15.


Hình 16.


Hình 16bis


      b - Đai đồng yểm chân chuôi gươm. 
       Yếm được giữ chặt vào chân chuôi ngà bằng một đai đồng mỏng. Đường kính đầu tiếp giáp với kiếm cách: 35mm, Đường kính chân: 32mm, dài: 15mm.

Hình 17.


3 - MÀU SẮC CHUÔI NGÀ 

- Toàn thân cán ngà đã bị lạc tinh phân làm hai mảng. Mảng nằm dưới yếm bị sứt mẻ, phô ra sắc ngà ám thành ngấn có màu nâu xậm đen phân bổ không đều, khác hẳn với phần thân sau chuôi ngà không bị yếm che phủ có màu nâu đỏ xậm.

- Những phần chuôi ngà không bị yếm đồng che khuất, mặt ngà biểu lộ sự đanh-kiệt, lên nước bóng nhẫy như được thoa qua một lớp dầu mỡ bởi việc cầm nắm của bàn tay tạo sự ma sát lâu đời mà thành.

- Thân chuôi. Khối ngà nguyên thủy đã bị mài vẹt đi để tạo độ cong cho chuôi gươm. Trải qua thời gian dài hàng vài thế kỷ chịu tác động bởi ngoại giới, khiến chất ngà bị đanh kiệt, co rút làm ửng lộ lớp ngà phía dưới lên cấu thành những đường vân tròn không đều nằm chồng lên nhau nhiều lớp nhìn chẳng khác gì vân của những loại gỗ quý.

   Sự lạc tinh của sắc ngà cùng việc hiển lộ độ đanh-kiệt bóng láng như đươc thoa qua một lớp dầu mỡ như thế. Chứng tỏ cái chuôi ngà của thanh gươm phải kinh qua một thời gian lâu dài như thế nào đó, chất ngà mới đủ sức bộc lộ ra hiện tượng lý hóa như thế. Có một số ý kiến cho rằng màu nâu đen đó là sắc độ của “ngà huyết”. Tên dùng để gọi cho loại ngà voi có độ tuổi rất sâu trên mấy trăm năm.


Hình 18.

 

  D – VỎ GƯƠM VÀ CÁC PHỤ KIỆN.

1 - Vỏ gươm. Vỏ gươm được tạo tác bằng hai mảnh gỗ ghép lại. Vỏ dài: 680mm. Đầu ngang: 42mm, giữa ngang: 35mm, chân ngang: 23mm, dày: 15mm.

Hình 19.

      
Hình 20

2 - Các phụ kiện. 

a - Yếm yểm miệng vỏ gươm

          Miệng vỏ gươm được yểm bằng một yếm đồng mỏng dạng ống dẹt, miệng có viền gợn sóng. Chiều ngang: 42mm, dài: 65mm, bề dày: 17mm

       Đặc biệt: Trên trên bề mặt trái và phải của yếm đều có chạm khắc hình ảnh con rồng, đường nét rất nhuyễn và tinh tế. 



Hình 21.


b - Hai đai trên thân vỏ gươm.

 Ở phần giữa thân vỏ có đính 02 đai đồng mỏng nằm cách xa nhau chừng 120mm. 

- Đai giữa: Ở giữa thân kiếm hình bướm dài cỡ: 33mm, bề ngang: 40mm, bề dày: 17mm

- Đai khoen:  Đai khoen năm gần yếm mũi dài: 12mm, bề ngang: 37mm, bề dày: 17mm. Mục đích của yếm yểm miệng vỏ và các đai là để giữ cho hai mảnh gỗ vỏ gươm dính chặt vào nhau không bị tách rời ra.


Hình 22.

  Đa số trên các thanh gươm hoặc kiếm khác. Ở sống yếm yểm miệng vỏ và các đai đều có làm nhô lên một cái kỳ để đính khoen móc dây đeo. Nhưng trên thanh gươm cán ngà này không thấy. Có vẻ như thanh gươm thường được tráng sĩ cầm hoặc vác trên vai chứ không đeo.


Hình 23. Võ quan thời Lê - Trịnh vác kiếm. 
(Nguồn: Đại Việt Cổ Phong. Tục vác kiếm thời xưa). 


Hình 24. Cách cầm kiếm qua các thời đại.
(Nguồn: Đại Việt Cổ Phong. Tục vác kiếm thời xưa).


Hình 24bis. Các quan lại triều Nguyễn. Ảnh chụp 1910, đã phục dựng màu.
                                                (Nguồn: khamphabian)



c - Yếm yểm mũi vỏ gươm.

- Phần mũi vỏ gươm cũng được bịt một yếm ống bằng đồng dạng sừng dài: 125mm, bề ngang: 25mm, bề dày: 15mm. Toàn thân có chạm vảy cá nằm sát nhau cùng chiều. Đặc biệt. Nơi đỉnh nhọn của yếm đồng được úp thêm một cái mũ, trên đỉnh có đính hai sợi đồng cuộn tròn như ngọn râu bí dính vào nhau chìa ra khỏi mũi yếm bao gươm giống hai lỗ tai.


Hình 25.

Nhận xét:

-  "Yếm yểm miệng vỏ" và "đai vỏ gươm". Chất liệu đồng  bị khí hậu nóng ẩm vùng nhiệt đới tác động cộng thêm bề mặt bị lớp ten bợn bụi két vào qua nhiều thế kỷ đã khiến cho sắc đồng nguyên thủy bị lạc tinh biến thành màu đen nhánh (lớp patina tự nhiên theo thời gian) và lớp bợn bụi cũng két vào các rãnh chạm khắc làm mờ đi những họa tiết, hiện chỉ còn thấy từng cụm vẩy cùng dáng cách uốn lượn không trọn vẹn của con rồng. 

 - "Yếm yểm mũi bao gươm". Chất liệu đồng còn khá tốt nhưng có dấu hiệu mòn lẳn do lau chùi và bị oxy hóa, lớp patina phủ trùm có màu ám khói.  

 - "Vỏ gươm". Chất liệu bằng gỗ, nguyên thủy có màu vàng nhạt, trọng lượng khá nhẹ. Nhìn qua những gì còn sót lại trên vỏ thanh gươm, nó cho thấy toàn thân bên ngoài vỏ đã được bã lên một lớp đệm gì đó khá dày rồi mới quét phủ lớp sơn then lên. Trải qua nhiều thế kỷ bị khí hậu nóng ẩm nhiệt đới và ngoại vật tác động, khiến lớp sơn then trên thân vỏ bị biến dạng, hiện tượng dộp, tróc lở tự nhiên xảy ra đã bóc đi hầu hết lớp sơn trang trí bên ngoài để lộ mặt vỏ gỗ bên trong ngậm sơn then bóng nhờ. Trên thân vỏ bên ngoài có nhiều chỗ còn két lại từng mảng lam nham sần sùi nứt rạn lấm tấm như vảy rắn, vuốt nhẹ thấy nhám cộm da tay. 

    Một câu hỏi được đặt ra. Tại sao vỏ gươm không để nguyên trạng sắc gỗ ban đầu mà lại cho phủ thêm lớp sơn ta? Lớp sơn phủ ban đầu màu gì? Có điểm xuyết hay vẽ thêm hoa văn gì trên đó không?  

 

III – PHÂN LOẠI THANH GƯƠM CÁN NGÀ.

 

           1 - Gươm thực chiến: Vì có một vài dấu hiệu sau:

        * Ở phần đầu chuôi gươm không thấy còn yếm mũ đốc kiếm.

        * Đầu đốc ngà bị sứt mẻ nặng, vạt hẳn về bên phải. Chứng tỏ có sự va đập nhiều khi giao chiến sau khi mũ đốc gươm không còn (nếu có).

        * Lưỡi gươm nặng, có độ cứng của loại thép được tôi luyện công phu. Trên sống và bề mặt lưỡi gươm, cả hai đều có vét nhiều rãnh máu để tạo độ sát thương cao. Biểu thị cho vũ khí thực chiến.

       * Thân và chuôi liên kết với nhau rất chắc chắn và lưỡi còn khá sắc bén thể hiện chức năng của chiến khí cá nhân cực tốt.

       * Trên sống yếm miệng vỏ và đai ôm thân vỏ không có thiết kế nhô lên cái kỳ để đính khoen móc dây đeo. Phải chăng để tránh vương víu khi vác hoặc dắt vào, rút ra khỏi đai lưng của tráng sĩ. Điều bày chứng tỏ không phải là gươm nghi trượng hay gươm ấn phù của các pháp sư. Ở thể loại gươm, kiếm nghi trượng hoặc ấn phù ngoài vỏ thường có làm dây để đeo bên hông chứ không dắt vào đai lưng hoặc cầm tay.

        * Ngoài chuôi bằng ngà. Thanh gươm không có trang trí họa tiết rườm rà và cẩn ghép các loại vàng bạc hay đá quý. Những thứ này thường có trong kiếm ấn phù hay nghi trượng.      

        Dựa vào những phân tích trên, tất cả cho thấy thanh gươm này thuộc loại gươm thực chiến chứ không phải loại gươm ấn lệnh của tôn giáo hoặc gươm đeo trang trí cho các quan lại.

 

2      Dấu hiệu Vương quyền. 

    Quan sát kỹ hiện vật. Có hai nơi mang hình ảnh con rồng:

      * Một ở yếm đồng yểm miệng vỏ gươm.

      * Một ở yếm đồng yểm chân chuôi gươm nơi tiếp giáp với đĩa hộ thủ.

      * Chuôi gươm được làm bằng khối ngà đặc để trơn không có chạm khắc. Nên nhớ ngà voi không phải là chất liệu phổ biến để dùng đại trà cho quân khí mà thiên về giới quan lại chỉ huy hoặc tầng lớp quyền quý.

     Theo quan niệm của xã hội thời Phong kiến của Việt Nam và Trung Quốc. Hình ảnh con rồng chỉ dành riêng cho bậc Đế Vương. Quan lại và thứ dân không được phép dùng. Nếu vi phạm sẽ mang tội khi quân. Do đó không ai dại gì mà đi chạm khắc hình con rồng lên vật dụng của mình để rước vạ vào thân. Các quan lại, chức sắc càng không thể vì buộc phải tuân thủ theo kỷ cương.

       Tất cả những điều vừa nêu trên chứng tỏ chủ sở hữu thanh gươm này phải thuộc dạng cực kỳ đặc biệt chứ không phải hàng tướng lãnh bình thường. 

      Rất tiếc những nơi có chạm rồng chất liệu đồng đã bị oxy hóa và thời gian bào mòn, sứt mẻ khá nhiều nên chỉ còn loáng thoáng dáng con rồng chứ không còn thấy được trọn vẹn.

 

       Có vài thắc mắc cần sự lý giải.

·       Biểu tượng con rồng có được xã hội phong kiến (Từ thế kỷ 19 trở về trước) cho phép sử dụng rộng rãi đến mọi tầng lớp quan lại và quần chúng hay chỉ dành riêng cho Vua?

·       Phải chăng thanh gươm cổ cán ngà có chạm trổ hình con rồng này là của một vị Vương nào đó sử dụng khi đang còn trong giai đoạn tranh giành quyền lực trong thời gian chuẩn bị lên ngôi Đế trong giai đoạn từ thế kỷ 17 dến thế kỷ 19?       

      Nên nhớ đây là thanh gươm đươc sử dụng để chiến đấu thực sự mang phong cách của thời Hậu Lê - Chúa Trịnh đã ra đời cách nay đã vài thế kỷ chứ không phải loại gươm sử dụng trong tế lễ tôn giáo hay sản xuất thương mại sau này.


Hình ảnh về "Tượng gươm" của tôn giáo và nghi trượng Hoàng Gia

Hình 27. Ảnh a.                         Ảnh b. 
                
Ảnh a. Tượng gươm ở đền A Sào. (Vũ Khố. Đại Việt Cổ Phong)

 Ảnh b. Thanh gươm Hoàng Gia thời Minh Mạng (Binh khí Việt)

 

      THAM KHẢO.

  ChatGPT.

    ChatGPT gợi ý về họa tiết rồng trên thanh gươm cán ngà.

🐉 1. Vị trí chạm rồng ở yếm miệng vỏ:

Yếm miệng vỏ là nơi tiếp giáp trực tiếp giữa gươm và vỏ, thường có tác dụng bảo vệ lưỡi gươm, chống bụi, chống va chạm khi tra vào và rút ra. Việc chạm khắc hình rồng tại đây không chỉ mang ý nghĩa trang trí, mà còn mang ý nghĩa "hộ pháp" — rồng là linh vật có uy quyền, bảo vệ cho chủ nhân và vũ khí, trấn giữ sát khí, giữ cho gươm không bị “ô uế” khi không dùng đến.


 

🐉 2. Vị trí chạm rồng ở chân chuôi gươm:

Chân chuôi là nơi chuyển tiếp giữa lưỡi gươm và cán, có chức năng chịu lực khi chém, và cũng là điểm nối “linh hồn” của thanh gươm với người sử dụng. Hình rồng ở đây tượng trưng cho sức mạnh thiêng liêng, hộ thân, mang lại vận khí, may mắn và quyền uy cho người cầm. Trong văn hóa vũ khí cổ Việt, đặc biệt thời Lê - Trịnh, chi tiết rồng ở chân chuôi thường dành cho vũ khí của võ quan cấp cao, hoặc những người có địa vị đặc biệt.


🧠 Tóm lại:

·        Rồng tượng trưng cho quyền lực hoàng gia, sự linh thiêng và bảo hộ.

·        Ở hai vị trí này, rồng vừa đóng vai trò bảo vệ, vừa như một dấu ấn "chứng nhận" đẳng cấp cho chủ nhân.

Về niên đại, phong cách chạm rồng này nếu đi kèm với hình dáng thanh kiếm hơi cong, vỏ gỗ sơn then (hoặc sơn son thếp vàng), thì hoàn toàn có thể xếp vào khoảng thế kỷ 17-18, giai đoạn Hậu Lê - Trịnh.

(Tham khảo ngày:14/4/2025)



   TÌM HIỂU VỀ KIẾM TRUNG HOA VÀ VIỆT NAM.

                                       (Nguồn: Hiệp Khí Đạo Forum).

Trích đoạn:

- Ngoài ra kiếm được dùng rộng rãi vì các lý do sau đây:

* Thứ nhất, kiếm được coi là vật tượng trưng cho quyền lực và địa vị như hoàng đế thường ban cho các đại thần thân tín "Thượng phương bảo kiếm" có quyền sinh sát, chém trước, tâu sau.

* Thứ hai, kiếm được các vị đạo sỹ lấy làm pháp khí dùng trong khi làm lễ về tôn giáo, nói rằng kiếm có thể " hàng yêu, trừ ma"

* Thứ ba, kiếm được coi là tiêu chí biểu thị địa vị và đẳng cấp trong lễ nghi. Sách vở cổ có ghi chép lại chế độ đeo kiếm rất nghiêm ngặt như người đeo kiếm tuổi tác khác nhau, địa vị khác nhau thì kim loại và đá quý trang sức trên kiếm cũng phải khác

* Thứ tư, trong chiến tranh kiếm được coi là vũ khí để tự vệ khi các vũ khí dùng trong chiến trận bị hư, gãy. Trong thời bình kiếm được coi là một thứ trang sức phong nhã, văn thân hoc sĩ đeo kiếm để tỏ ra mình là cao nhã không dung tục. Vả lại cái đẹp của kiếm vừa thư vừa hùng nên cho dù nam hay nữ đều có thể đeo và sử dụng

 

- Về hình dạng kiếm của Việt Nam có hai loại: Loại hai lưỡi bén và loại một lưỡi bén còn gọi là gươm. Loại kiếm có một lưỡi bén xuất hiện từ khoảng 1400 dến 1800 có hình dạng giống Liễu diệp đao của đời nhà Minh bên Tàu.



    IV – TRUY TÌM NGUỒN GỐC XUẤT XỨ THANH GƯƠM CÁN NGÀ.

 

1 – Những thanh gươm thời Hậu Lê & Chúa Trịnh trên mạng xã hội.


Hình 28. Ảnh một vài thanh kiếm thời Hậu Lê & Chúa Trịnh

                           (Nguồn: Võ Trận Đại Việt)

Hình 29. (Nguồn: Spiderum//GordonFreeman)




Hình 29bis. Trích từ thanh gươm thời Trịnh hình trên. 
(Nguồn: Spiderum//GordonFreeman)

Hình 30. Một thanh kiếm ở miền Bắc Việt Nam ở thế kỷ thứ 13 đến 18.




2 – Thanh gươm cán ngà có chạm rồng ở yếm miệng vỏ và yếm chân chuôi.

Hình 31.

Hình 32.

Hình 31 & 32. Trích đoạn hiện trạng yếm yểm chân chuôi và yếm yểm miệng vỏ thanh gươm nhìn từ bốn hướng


Hình 33. Thanh kiếm cán ngà có chạm rồng, để bên ngoài và trong vỏ kiếm.


3 – So sánh.

      
Hình 34. 
     

Hình 34bis

      

             a - Xét và đối chiếu với hình ảnh những thanh gươm thời Hậu Lê và Chúa Trịnh của nhà nghiên cứu Võ Trận Đại Việt và Tonkin Gươm của Mandarin Mansion (Swordis. Kiêm Việt Nam) cho thấy thanh gươm cán ngà rất tương cận với những thanh gươm ở giai đoạn Hậu Lê và Chúa Trịnh. Có một khác biệt nhỏ cần lưu ý là trên vỏ thanh gươm thời Chúa Trịnh có đính khoen để móc dây đeo, Thanh gươm chuôi ngà không có.

                  b – Mặc dù xét về hình dáng thanh gươm chuôi ngà có chạm rồng được xem là khá tương cận với thanh gươm thời Chúa Trịnh, nhưng điều bày vẫn chưa đủ để khẳng định. Do đó chúng ta cần xét thêm những yếu tố của môi trường tác động tự nhiên lên thanh gươm ở cấp độ nào, có tương ứng với niên đại của Chúa Trịnh cách nay cả mấy trăm năm không?

     Để cho việc lập luận có cơ sở, người viết đã lưu tâm truy xét đến yếu tố vật lý cùng môi trường thiên nhiên đã tác động lâu dài tự nhiên vào vật phẩm. Tất cả đã chỉ rõ độ sâu tuổi trên mấy trăm năm của thanh gươm cán ngà có chạm rồng này thông qua hiện tượng patina hằn dấu trên thanh gươm cùng các phụ kiện rất rõ ràng, không có chút dấu vết của con người chỉnh sửa. (Xin xem lại các hình ảnh bên trên).



Hình 35.


Hình 36.


Hình. 37

Hiện tượng patina nổi sần sùi như "giời leo" trên bề mặt phía sau đĩa hộ thủ.


 

Hình. 38



          Hiện tượng patina như "rãnh mối" ăn khuyết xuống bề mặt đĩa hộ thủ.


Hình 39.


Hình 40.

Hình 41.


Hình 42.


Hình 43.

4 – Kết luận: Sau khi xem xét về hình dáng tổng thể và hiện tượng patina xuất hiện trên thanh gươm chuôi ngà có chạm rồng. Người viết tạm thời kết luận. Thanh gươm này xuất hiện vào những thời Hậu Lê – Chúa Trịnh là điều xác đáng.

Tham khảo ChatGPT

🧠 Tóm lại:

  • Rồng tượng trưng cho quyền lực hoàng gia, sự linh thiêng và bảo hộ.
  • Ở hai vị trí này, rồng vừa đóng vai trò bảo vệ, vừa như một dấu ấn "chứng nhận" đẳng cấp cho chủ nhân.
  • Về niên đại, phong cách chạm rồng này nếu đi kèm với hình dáng thanh kiếm hơi cong, vỏ gỗ sơn then (hoặc sơn son thếp vàng), thì hoàn toàn có thể xếp vào khoảng thế kỷ 17-18, giai đoạn Hậu Lê - Trịnh. 


                V – MỤC ĐÍCH.           

      Với bài này, người viết muốn xoáy vào ba điểm cực kỳ quan trọng.

1 – Độ tuổi chính xác của thanh Hắc Long gươm cán ngà này là bao nhiêu?

          2 - Tại sao và lý do gì hình ảnh con rồng lại được chạm khắc lên trên yếm miệng vỏ và yếm yểm chân chuôi như thế?

          3 – Ai là chủ nhân của thanh Hắc Long gươm này và ở vào giai đoạn nào của lịch sử Việt Nam?

         Nếu lý giải được ba vấn đề nêu trên thì đó cũng là điều thú vị cho bản thân và cũng là động cơ khích lệ cho những ai thích sưu tầm đồ xưa vật lạ còn mù mờ chưa rõ nguồn gốc đích thực của nó.

     Theo ý chủ quan. Đây là thanh gươm thực chiến có dấu hiệu từ thời Hậu Lê – Chúa Trịnh của Việt Nam. Người sử dụng thanh gươm này phải là người có quyền lực rất lớn, cát cứ một vùng lãnh thổ nào đó, đồng thời dưới tay phải là một lực lượng quân sự hùng mạnh ủng hộ mới dám thể hiện công khai hình ảnh con rồng trên vũ khí cá nhân của mình như thế. Rất tiếc không phải là chuyên gia nghiên cứu lịch sử và cũng không có điều kiện dùng phương pháp khoa học để giám định độ tuổi chính xác của thanh gươm. Nếu xác định được chắc chắn độ tuổi của thanh gươm cán ngà có chạm rồng này thì phần truy nguyên sẽ có nhiều thuận lợi hơn.

 

            VI – LẠM BÀN.

     Dựa vào hình ảnh những thanh gươm thời Hậu Lê-Trịnh của nhà nghiên cứu Võ Trần Đại Việt cho thấy thanh gươm cán ngà chạm rồng có khá nhiều điểm tương đồng. Và nếu cho rằng thanh gươm cán ngà chạm rồng xuất hiện vào thời Hậu Lê – Trịnh (1428 – 1789) đến thời Tây Sơn và Nguyễn Gia Long. Một câu hỏi được đặt ra. Ai là người chủ nhân của thanh gươm cán ngà có chạm hình rồng này?

1      -  Diễn tiến lịch sử Việt Nam qua các giai đoạn: Từ nhà Hậu Lê và Trịnh đến nhà Tây Sơn – Nguyễn Ánh.

* Giai đoạn Lê sơ (1428-1527). Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn. Giai đoạn này người chinh chiến nằm gai nếm mật là vua Lê Lợi.

*Thời Nam Bắc triều xảy ra vào những năm: (1533 - 1593). Cuộc xung đột xảy ra giữa Mạc Đăng Dung và Nguyễn Kim. Chúa Nguyễn Kim bị loại bỏ vì lấy danh nghĩa phù Lê chỉ còn mỗi tướng Mạc Đăng Dung lên ngôi năm 1527.

* Thời Trịnh Nguyễn Phân tranh (1627 – 1777), Cuộc xung đột xảy ra giữa Trịnh Kiểm và Nguyễn Hoàng cũng bị loại vì cả hai cùng dùng danh nghĩa phù Lê.

* Thời Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1771 – 1802). Giai đoạn này rất hỗn loạn, nhất là sau khi Tây Sơn đánh thắng quân nhà Thanh, danh nghĩa phù Lê bị xem nhẹ. Nguyễn Nhạc xưng Đế và Nguyễn Huệ cũng đã xưng Đế và sau cùng là Gia Long. 

               Theo lịch sử cho thấy có một số vị là chiến tướng với cả một quá trình chinh chiến nằm gai nếm mật vào sinh ra tử và cuối cùng đã đạt được mục đích, theo thứ tự trước sau là: Vua Lê Lợi (1385-1433). Vua Mạc Đăng Dung (1483-1541). Chúa Nguyễn Hoàng (1525-1613). Vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc) (1743-1793), Vua Quang Trung (1753-1792), Vua Gia Long (1762 – 1820). Đây là những vị tướng đã từng đích thân tham chiến qua nhiều trận đánh và sau đó lên ngôi Hoàng Đế...

 

         2 - Giả thiết:

       Trong giai đoạn xã hội nhiễu nhương, tứ phương lọan lạc bất ổn. Với những vị tướng tài giỏi có tư tưởng lớn được quần chúng tôn làm minh chủ để mang lại sự ổn định cho xã hội. Khi đã hội đủ những yếu tố thuận lợi về thiên thời, địa lợi và nhân hòa, họ thường xưng Vương. Và hình ảnh con rồng được gắn liền với vị Vương đó. Chuyện này không ngoài mục đích chứng tỏ uy quyền của vị thiên tử được mệnh trời giao phó, tạo niềm tin vững chắc cho mọi người. Do đó vũ khí cá nhân sử dụng có chạm rồng cũng là điều dễ hiểu.

          * Nếu cho rằng thanh gươm cán ngà có chạm rồng này là vũ khí cá nhân của vị một Quân vương Việt Nam nào đó sử dụng trong thời chiến. Vậy thanh gươm này có từng thuộc về ai trong các vị Vua đã nêu trên không?

         * Nếu cho là không phải! Lý do nào trên thanh gươm cán ngà lại có chạm rồng? Xin nhắc lại. Dưới thời Phong kiến hình ảnh con rồng chỉ dành riêng cho nhà Vua. Quan lại và thứ dân cấm không được sử dụng biểu tượng này.

       * Thanh gươm cán ngà cho thấy nó không phải là phẩm vật nghi trượng và cũng không phải gươm, kiếm ấn phù của pháp sư. Vì loại gươm, kiếm nghi trượng thường được trang trí cầu kỳ và đính đính kèm những phụ kiện quý giá như vàng bạc và đá quý...v...v... Và gươm, kiếm ấn phù là loại tượng trưng nên lưỡi dao của họ thường được tạo hình đơn giản không có những dấu hiệu sát thương trên bề mặt lưỡi.

      Xin lưu ýĐây chỉ là giả thiết trên mặt lý thuyết vì chưa có điều kiện dùng phương pháp khoa học để xác định niên đại chính xác của thanh gươm, nó ở giai đoạn nào của lịch sử Việt nam một cách rõ ràng và người viết cũng chưa có điều kiện truy tìm tài liệu bằng văn bản hay hiên vật trưng bày trong bảo tàng về những thanh gươm có mang trên mình hình ảnh con rồng được các vị Vương tướng sử dụng trong thời kỳ chinh chiến trước khi lên ngôi. Nên chuyện thanh gươm cán ngà có chạm rồng này của ai hoàn toàn để ngỏ và chuyện này có khiến cho các học giả, các nhà sử học lưu tâm đến không cũng là điều để ngỏ....

                     

VII - MỘT THANH GƯƠM THỜI NGUYỄN GIA LONG.



  Hình 44. Một thanh gươm thời nhà Nguyễn hiện đang sở hữu.

                      

VIII – BỔ SUNG VỀ SẮC DIỆN CỦA NGÀ.

   Trong lúc vào trang mạng xã hội tìm hiều về ngà voi, tình cờ bắt gặp bài viết “Ngà voi huyết là gì?” của trang 2hand Omoiyari đăng trên Facebook, ngày 19 tháng 10 – 2020. Chưa rõ sự việc như thế nào, nhưng ít nhiều gì bài viết “Ngà voi huyết là gì” đã khơi gợi cho một cái nhìn mới về sự đa dạng của phẩm vật ngà voi.

     Có lời xin phép trang 2hand Omoiyari về việc đã trích dẫn bài viết “Ngà voi huyết là gì” và phần phản hồi của Quỷ Cốc Lửng và dùng  phông chữ nghiêng để phân biệt bài trích dẫn.

        “Ngà voi huyết là gì. Đó là 1 câu hỏi mà khá là nhiều khách hàng cũng đang thắc mắc và tìm hiểu hiện nay. Ngà voi trắng thì chắc là cũng rất nhiều người biết đến rồi. Còn ngà voi huyết là 1 trong số hiếm của ngà voi. Nó có màu sắc khác biệt hơn. Đẹp từ màu sắc cho dù bạn sử dụng về lâu dài. Nếu như ngà voi trắng các bạn đeo lâu dài thì nó sẽ lên nước ố vàng. Còn ngà voi huyết thì không.

Do là sự khan hiếm và độ đẹp của nó thế nên giới săn lùng chơi đồ cũng rất nhiều người muốn sở hữu về 1 sản phẩm huyết thật đẹp cho bản thân mình.

Hơn nữa ngà voi còn có tác dụng: giải độc, hút phong, xua đuổi tà ma và đem lại may mắn cho gia chủ.

Hôm nay bên em sẽ giới thiệu đến mọi người dây chuyền ngà voi huyết của thương hiệu nổi tiếng AVon.

LH: 0908-378-394

Hình ảnh của sợi dây chuyền ngà voi huyết của thương hiệu nổi tiếng AVon.

 

Phản hồi của Quỷ Cốc Lửng:

-        Ngà voi được gọi là huyết ngà thực tế có màu hơi hồng để lâu năm hay đeo nó sẽ thành màu nâu đen, thời nay không có huyết ngà, cách đây khoảng vài trăm năm còn tìm thấy hiện tại thì đừng có mơ,

-        Huyết ngà rất đa dạng nguyên bảng, lên nước ra làm sao còn Lê thuộc để nơi nào bao lâu, 100 năm độ về tới này mình nghĩ chắc chắn rằng không có huyết ngà nhé

-        bao nhiêu ngàn con voi chưa chắc chắn là sẽ có ngà huyết

Ph Khánh Ngân tôi không phải người mua bán, tôi chỉ thích sưu tầm đồ cổ xưa ngọc ngà sừng tê giác được làm trang sức hay tượng Phật được làm từ huyết ngà, sừng tê, nói chung là sừng quý hiếm, 100% không bán”




 
Hình ảnh phẩm vật huyết ngà do Quỷ Cốc Lửng đưa lên trong phản hồi.


          Hình ảnh một chuôi gươm bằng ngà. (Nguyễn Triệu. Binh Khí Việt). 

      
Hình ảnh thanh gươm cổ, chuôi ngà có màu nâu xậm (Nguồn: Binh Khí Việt)




IX - CÂU HỎI VỀ SẮC DIỆN NGÀ CỦA  CHUÔI GƯƠM.




             



 
Với sắc diện nâu đen trên toàn thân chuôi gươm như thế! Vậy chuôi ngà này có được xem là “ngà huyết” không?


                                                                                    Cauminhngoc
                                                                                      26/3/2025


Tài liệu tham khảo.

- Nguồn: 2hand Omoiyari Wikipedia // Võ Trận Đại Việt // Mạng xã hội Google // ChatGPT //  Swordis. Kiếm Việt Nam // Hiệp Khí Đạo Forum. Tìm hiểu về kiếm Trung Quốc và Việt Nam // Binh Khí Việt.