Hình 02bis.
Thông số căn bản của thanh gươm:
* Nhìn tổng thể thanh gươm có màu gần như đen tuyền.
· * Dáng cong nhẹ như lá liễu, vểnh mũi và đuôi hơi quắp xuống.
· * Chiều dài tổng thể còn nằm trong vỏ: 840mm. Nặng: 1.000gram.
· * Chiều dài không vỏ, tính từ đỉnh đốc đến chóp mũi: 745mm. Nặng: 800gram.
· * Vỏ gươm dài: 657mm. Nặng: 200gram.
· * Chuôi gươm được làm bằng ngà voi đã xuống màu nâu đen.
* Điểm cân bằng là: 250mm, tính từ đốc chuôi đi về phía mũi gươm.
Đặc biệt: Hình ảnh "con rồng" được chạm trên yếm đồng yểm miệng vỏ và yếm đồng yểm chân chuôi gươm.

II - CHI TIẾT
A – LƯỠI GƯƠM.
1 – Lưỡi dao.
- Lưỡi dao khá dày được luyện bằng thép có dáng hơi cong nhẹ lên về phía mũi. Toàn thân dài: 580mm. Phần sắc bén bên dưới lưỡi dao gọi là Hạ nhận (下刃).
- Phần sống dao ở sát đĩa hộ thủ dày: 08mm, giữa: 06mm. Trên sống dao, sau phần yếm yểm chân lưỡi dao có vét 2 rãnh máu dài: 390mm.
Ngay cuối rãnh máu sống gươm dày: 05mm. Bắt đầu từ rãnh máu sống gươm lưỡi dao được
vát mỏng đều hai bên cho đến mũi để tạo độ bén. Gọi là Thượng nhận (上刃), dài:
190mm. Dày: 40mm. Chóp mũi dày: 02mm.
- Bề rộng bản diện lưỡi dao chỗ sát với đĩa hộ thủ là: 35mm. Ra giữa là 30mm, cuối rãnh máu là: 20mm rồi vát dần về phía mũi.
- Trên bản diện lưỡi dao có vét 3 rãnh máu. Rãnh trên cùng dài: 495mm, rộng: 02mm. Rãnh giữa dài: 460mm, rộng: 07mm. Rãnh chỉ nằm sát dưới rãnh giữa dài: 460mm. Ở đoạn cuối này rãnh chỉ kết hợp với mũi rãnh giữa tạo thành "vân gươm" có hình xà mâu dài: 40mm, bề ngang: 02mm. Đầu "vân gươm" cách mũi dao: 50mm.
- Trên bản diện lưỡi dao nếu soi kỹ sẽ thấy có những sớ thép hiện lên giống
như sớ gỗ và khá nhiều nơi trên thân dao bị rỉ sét ăn khuyết khá sâu thành từng
mảng, hiện tượng này cho thấy độ tuổi của thanh gươm phải được tính bằng đơn vị
trăm năm...
- Cạnh sắc dưới của dao (Hạ nhận) đôi chỗ bị mẻ nhẹ nhưng vẫn không làm mất đi độ bén ngót của nó.

Hình 04.
1- CHUÔI NGÀ:
- Chuôi gươm là một khối ngà đặc được tạo hình thon đầu nở đuôi. Lưng hơi vồng lên cùng hướng với sống kiếm. Phần bụng vét hóp lại để tạo dáng cong cho tổng thể, nhìn giống như quả cà tím. Chuôi gươm không tròn hẳn mà hơi dẹt hai bên má cho đường kính: 30mm. Trên bề mặt chuôi ngà xuất hiện rải rác nhiều rãnh nứt ngắn dài chạy dọc theo thân. Phía mỏm đầu chuôi (đốc) gươm cho thấy bị sứt mẻ lệch hẳn về bên phải dài khoảng 30mm. Phần bên trái chi bị xây xước nhẹ và mòn lằn xuôi về đốc gươm. Chiều dài chuôi không tính hộ thủ: 155mm. Đường kính cổ chuôi: 32mm, giữa: 34mm, gần đốc gươm: 37mm.
Thông thường ở những thanh gươm hoặc kiếm khác, hầu hết ở phần đầu chuôi
(đốc chuôi) thường có yểm một cái mũ bằng kim loại, mục đích để bảo vệ đốc không
bị toác khi va đập, ngăn giữ thanh gươm, kiếm không bị tuột khỏi bàn
tay khi được rút ra khỏi vỏ. Riêng ở thanh gươm cán ngà chạm rồng này ở đốc gươm không thấy có phần mũ đó mà chỉ thấy trơ ra một cùi ngà đặc bị sứt mẻ lam nham khá nặng. Quan sát kỹ. Ngay đỉnh đầu chuôi (đốc chuôi) ngoài những chuyện bị sứt mẻ trầm trọng còn có thấy một lỗ tròn đường kính khoảng: 05mm lặn sâu vào thân chuôi ngà. Bên ngoài vòng tròn chất ngà còn rất cứng nhưng bên trong lõi lỗ tròn, chất liệu rất giòn. mủn có thể moi sâu vào trong dễ dàng (Đã thử moi sâu vào bên trong chừng 02mm. Hiện trang cho thấy cái lỗ tròn rất rõ). Không hiểu đây có phải là dấu vết thanh lõi kim loại của cái mũ đốc gươm đã gắn vào thân chuôi ngà không hay là lỗ tự nhiên của thỏi ngà?
Hình 10.
Hình 11.
Hình 12.
Hình 13.
Hình 14.
2 –
PHỤ KIỆN TRÊN CHUÔI NGÀ:
a - Yếm đồng yểm chân
chuôi gươm.
- - Phần chân chuôi gươm sát với đĩa kiếm cách được bọc bởi một yếm
đồng dạng ống dài ra đến giữa chuôi. Phần đầu yếm có đường kính: 32mm.
Giữa: 35mm.
Hiên trạng cho thấy yếm yểm
chân chuôi nằm sát đĩa hộ thủ, tương đối vẫn giữ được vóc dáng ban đầu. Còn phần
ở giữa thân chuôi chỉ còn trơ một vành miệng sứt mẻ lam nham giáp vòng cho thấy
đã bị gãy mất khá nhiều. Có thể nói rằng đây là hậu quả bởi lực cầm nắm thường xuyên của bàn
tay tác động mạnh vào, khiến cho lớp yếm đồng mỏng bị mài mòn dần dẫn
đến chuyện móp méo mà gãy mất đi. Chỗ còn lại dài nhất phía trên lưng không kể đai
khoen chân chuôi đo được: 60mm, dưới bụng: 40mm.
- Đặc biệt: Trên bề mặt yếm đồng yểm chân chuôi gươm
có chạm khắc hình ảnh "con rồng" nhưng do trải qua thời gian dài hàng vài thế kỷ
bị ten bám và sứt mẻ quá nặng hầu như hơn một nửa nên chỉ còn thấy dáng vẻ
loáng thoáng, không còn trọn vẹn.
- Yếm đồng yểm chân
chuôi gươm trải qua một thời gian hàng vài trăm năm bề mặt bị lão hóa đã hình
thành nên một lớp ten có ánh sắc màu đen xám bao trùm giống như một lớp
da (lớp patina tự nhiên theo thời gian). Hiện trạng cho thấy lớp da trên bề
mặt yếm này đôi chỗ đã bị dộp rụng mất từng mảng lớn nhỏ không đều để lộ ra mặt
đồng bên dưới có màu nâu xám nhẹ. Hiện tượng bị dộp để lại những viền khoang
nhìn thấy rất rõ, không phải do ma sát làm mòn thường để lại độ mịn và láng đều
liền mặt.
Hình 15.
Hình 16.
Hình 16bis
b - Đai đồng yểm chân chuôi gươm.
Yếm được giữ chặt vào chân chuôi ngà bằng một đai đồng mỏng. Đường kính đầu tiếp giáp với kiếm cách: 35mm, Đường kính chân: 32mm, dài: 15mm.
3 - MÀU SẮC CHUÔI NGÀ:
- Toàn thân cán ngà đã bị lạc tinh phân làm hai mảng. Mảng nằm dưới yếm bị sứt mẻ, phô ra sắc ngà ám thành ngấn có màu nâu xậm đen phân bổ không đều, khác hẳn với phần thân sau chuôi ngà không bị yếm che phủ có màu nâu đỏ xậm.
- Những phần chuôi ngà không bị yếm đồng che khuất, mặt ngà biểu lộ sự đanh-kiệt, lên nước bóng nhẫy như được thoa qua một lớp dầu mỡ bởi việc cầm nắm của bàn tay tạo sự ma sát lâu đời mà thành.
- Thân chuôi. Khối ngà nguyên thủy đã bị mài vẹt đi để tạo độ cong cho chuôi gươm. Trải qua thời gian dài hàng vài thế kỷ chịu tác động bởi ngoại giới, khiến chất ngà bị đanh kiệt, co rút làm ửng lộ lớp ngà phía dưới lên cấu thành những đường vân tròn không đều nằm chồng lên nhau nhiều lớp nhìn chẳng khác gì vân của những loại gỗ quý.
Sự lạc tinh của sắc ngà cùng việc hiển lộ độ đanh-kiệt bóng láng như đươc thoa qua một lớp dầu mỡ như thế. Chứng tỏ cái chuôi ngà của thanh gươm phải kinh qua một thời gian lâu dài như thế nào đó, chất ngà mới đủ sức bộc lộ ra hiện tượng lý hóa như thế. Có một số ý kiến cho rằng màu nâu đen đó là sắc độ của “ngà huyết”. Tên dùng để gọi cho loại ngà voi có độ tuổi rất sâu trên mấy trăm năm.

Hình 18.
D – VỎ GƯƠM VÀ CÁC PHỤ KIỆN.
1 - Vỏ gươm. Vỏ gươm được tạo tác bằng hai mảnh gỗ ghép lại. Vỏ dài: 680mm. Đầu ngang: 42mm, giữa ngang: 35mm, chân ngang: 23mm, dày: 15mm.

Hình 19.
 |
Hình 20
|
2 - Các phụ kiện.
a - Yếm yểm miệng vỏ gươm:
Miệng vỏ gươm được
yểm bằng một yếm đồng mỏng dạng ống dẹt, miệng có viền gợn sóng. Chiều ngang:
42mm, dài: 65mm, bề dày: 17mm.
Đặc biệt: Trên trên bề mặt trái và phải của yếm đều có chạm
khắc hình ảnh con rồng, đường nét rất nhuyễn và tinh tế.
Hình 21.
b - Hai đai trên thân vỏ gươm.
Ở phần giữa thân vỏ có đính 02 đai đồng mỏng nằm cách xa nhau chừng 120mm.
- Đai giữa: Ở giữa thân kiếm hình bướm dài cỡ: 33mm, bề ngang: 40mm, bề dày: 17mm.
- Đai khoen: Đai khoen năm gần yếm mũi dài: 12mm, bề ngang: 37mm, bề dày: 17mm. Mục đích của yếm yểm miệng vỏ và các đai là để giữ cho hai mảnh gỗ vỏ gươm dính chặt vào nhau không bị tách rời ra.

Đa số trên các
thanh gươm hoặc kiếm khác. Ở sống yếm yểm miệng vỏ và các đai đều có làm nhô
lên một cái kỳ để đính khoen móc dây đeo. Nhưng trên thanh gươm cán ngà này
không thấy. Có vẻ như thanh gươm thường được tráng sĩ cầm hoặc vác trên vai chứ
không đeo.
Hình 23. Võ quan thời Lê - Trịnh vác kiếm.
(Nguồn: Đại Việt Cổ Phong. Tục vác kiếm thời xưa).
Hình 24. Cách cầm kiếm qua các thời đại.
(Nguồn: Đại Việt Cổ Phong.
Tục vác kiếm thời xưa).
Hình 24bis. Các quan lại
triều Nguyễn. Ảnh chụp 1910, đã phục dựng màu.
(Nguồn:
khamphabian)
c - Yếm yểm mũi vỏ gươm.- Phần mũi vỏ gươm cũng
được bịt một yếm ống bằng đồng dạng sừng dài: 125mm, bề ngang: 25mm,
bề dày: 15mm. Toàn thân có chạm vảy cá nằm sát nhau cùng chiều. Đặc
biệt. Nơi đỉnh nhọn của yếm đồng được úp thêm một cái mũ, trên đỉnh có đính hai
sợi đồng cuộn tròn như ngọn râu bí dính vào nhau chìa ra khỏi mũi yếm bao gươm
giống hai lỗ tai.
Hình 25.
Nhận xét:
- "Yếm
yểm miệng vỏ" và "đai vỏ gươm". Chất liệu đồng bị khí hậu nóng ẩm vùng nhiệt đới tác động cộng
thêm bề mặt bị lớp ten bợn bụi két vào qua nhiều thế kỷ đã khiến cho sắc đồng
nguyên thủy bị lạc tinh biến thành màu đen nhánh (lớp patina tự nhiên
theo thời gian) và lớp bợn bụi cũng két vào các rãnh chạm khắc làm mờ
đi những họa tiết, hiện chỉ còn thấy từng cụm vẩy cùng dáng cách uốn lượn
không trọn vẹn của con rồng.
- "Yếm yểm mũi bao gươm". Chất liệu đồng còn khá tốt nhưng có dấu hiệu mòn lẳn do
lau chùi và bị oxy hóa, lớp patina phủ trùm có màu ám khói.
- "Vỏ gươm". Chất liệu bằng gỗ, nguyên thủy có màu vàng nhạt, trọng lượng khá nhẹ. Nhìn qua những gì còn
sót lại trên vỏ thanh gươm, nó cho thấy toàn thân bên ngoài vỏ đã được bã lên một lớp
đệm gì đó khá dày rồi mới quét phủ lớp sơn then lên. Trải qua nhiều
thế kỷ bị khí hậu nóng ẩm nhiệt đới và ngoại vật tác động, khiến lớp sơn then trên thân vỏ bị biến dạng,
hiện tượng dộp, tróc lở tự nhiên xảy ra đã bóc đi hầu hết lớp sơn trang trí bên ngoài để
lộ mặt vỏ gỗ bên trong ngậm sơn then bóng nhờ. Trên thân vỏ bên ngoài có nhiều chỗ còn két lại từng mảng lam
nham sần sùi nứt rạn lấm tấm như vảy rắn, vuốt nhẹ thấy nhám cộm da tay.
Một câu hỏi
được đặt ra. Tại sao vỏ gươm không để nguyên trạng sắc gỗ ban đầu mà lại cho phủ
thêm lớp sơn ta? Lớp sơn phủ ban đầu màu gì? Có điểm xuyết hay vẽ thêm hoa văn
gì trên đó không?
III – PHÂN LOẠI THANH GƯƠM CÁN NGÀ.
1 - Gươm
thực chiến: Vì có một vài dấu hiệu sau:
* Ở phần đầu chuôi gươm không thấy còn yếm
mũ đốc kiếm.
* Đầu đốc ngà bị sứt mẻ nặng, vạt hẳn về
bên phải. Chứng tỏ có sự va đập nhiều khi giao chiến sau khi mũ đốc gươm không
còn (nếu có).
*
Lưỡi gươm nặng, có độ cứng của loại thép được tôi luyện công phu. Trên sống và bề mặt
lưỡi gươm, cả hai đều có vét nhiều rãnh máu để tạo độ sát thương cao. Biểu thị
cho vũ khí thực chiến.
* Thân và chuôi liên kết với nhau rất chắc
chắn và lưỡi còn khá sắc bén thể hiện chức năng của chiến khí cá nhân cực tốt.
* Trên sống yếm miệng vỏ và đai ôm thân
vỏ không có thiết kế nhô lên cái kỳ để đính khoen móc dây đeo. Phải chăng để
tránh vương víu khi vác hoặc dắt vào, rút ra khỏi đai lưng của tráng sĩ. Điều
bày chứng tỏ không phải là gươm nghi trượng hay gươm ấn phù của các pháp sư. Ở
thể loại gươm, kiếm nghi trượng hoặc ấn phù ngoài vỏ thường có làm dây để đeo
bên hông chứ không dắt vào đai lưng hoặc cầm tay.
* Ngoài chuôi bằng ngà. Thanh gươm không có trang trí họa tiết rườm
rà và cẩn ghép các loại vàng bạc hay đá quý. Những thứ này thường
có trong kiếm ấn phù hay nghi trượng.
Dựa vào những phân tích trên, tất cả
cho thấy thanh gươm này thuộc loại gươm thực chiến chứ không phải loại gươm ấn lệnh
của tôn giáo hoặc gươm đeo trang trí cho các quan lại.
2
– Dấu hiệu Vương quyền.
Quan
sát kỹ hiện vật. Có hai nơi mang hình ảnh con rồng:
* Một ở yếm đồng
yểm miệng vỏ gươm.
* Một ở yếm đồng yểm
chân chuôi gươm nơi tiếp giáp với đĩa hộ thủ.
*
Chuôi gươm được làm bằng khối ngà đặc để trơn không có chạm khắc. Nên nhớ
ngà voi không phải là chất liệu phổ biến để dùng đại trà cho quân khí mà thiên
về giới quan lại chỉ huy hoặc tầng lớp quyền quý.
Theo quan niệm của xã hội thời Phong kiến của Việt Nam và Trung Quốc. Hình ảnh con rồng chỉ dành riêng cho bậc Đế Vương. Quan lại và thứ dân không được phép dùng. Nếu vi phạm sẽ mang tội khi quân. Do đó không ai dại gì mà đi chạm khắc hình con rồng lên vật dụng của mình để rước vạ vào thân. Các quan lại, chức sắc càng không thể vì buộc phải tuân thủ theo kỷ cương.
Tất cả những
điều vừa nêu trên chứng tỏ chủ sở hữu thanh gươm này phải thuộc dạng cực kỳ đặc
biệt chứ không phải hàng tướng lãnh bình thường.
Rất tiếc những nơi có chạm rồng chất liệu đồng đã bị oxy hóa và thời
gian bào mòn, sứt mẻ khá nhiều nên chỉ còn loáng thoáng dáng con rồng chứ không
còn thấy được trọn vẹn.
Có
vài thắc mắc cần sự lý giải.
· Biểu
tượng con rồng có được xã hội phong kiến (Từ thế kỷ 19 trở về trước) cho phép sử dụng rộng rãi đến mọi tầng
lớp quan lại và quần chúng hay chỉ dành riêng cho Vua?
· Phải
chăng thanh gươm cổ cán ngà có chạm trổ hình con rồng này là của một vị Vương nào
đó sử dụng khi đang còn trong giai đoạn tranh giành quyền lực trong thời gian chuẩn bị lên ngôi
Đế trong giai đoạn từ thế kỷ 17 dến thế kỷ 19?
Nên nhớ đây là thanh gươm đươc sử dụng để chiến đấu thực sự mang phong cách của thời Hậu Lê - Chúa Trịnh đã ra đời
cách nay đã vài thế kỷ chứ không phải loại gươm sử dụng trong tế lễ
tôn giáo hay sản xuất thương mại sau này.
Hình ảnh về "Tượng gươm" của tôn giáo và nghi trượng Hoàng Gia
Hình 27. Ảnh a. Ảnh b.
Ảnh a. Tượng gươm ở đền A Sào. (Vũ Khố. Đại
Việt Cổ Phong)
Ảnh b. Thanh gươm Hoàng Gia thời Minh Mạng
(Binh khí Việt)
THAM
KHẢO.
ChatGPT.
ChatGPT
gợi ý về họa tiết rồng trên thanh gươm cán ngà.
🐉 1. Vị trí chạm rồng ở yếm
miệng vỏ:
Yếm miệng vỏ là nơi tiếp
giáp trực tiếp giữa gươm và vỏ, thường có tác dụng bảo vệ lưỡi gươm, chống bụi,
chống va chạm khi tra vào và rút ra. Việc chạm khắc hình rồng tại đây không chỉ
mang ý nghĩa trang trí, mà còn mang ý nghĩa "hộ pháp" — rồng là linh
vật có uy quyền, bảo vệ cho chủ nhân và vũ khí, trấn giữ sát khí, giữ cho gươm
không bị “ô uế” khi không dùng đến.
🐉 2. Vị trí chạm rồng ở
chân chuôi gươm:
Chân chuôi là nơi chuyển
tiếp giữa lưỡi gươm và cán, có chức năng chịu lực khi chém, và cũng là điểm nối
“linh hồn” của thanh gươm với người sử dụng. Hình rồng ở đây tượng trưng cho sức
mạnh thiêng liêng, hộ thân, mang lại vận khí, may mắn và quyền uy cho người cầm.
Trong văn hóa vũ khí cổ Việt, đặc biệt thời Lê - Trịnh, chi tiết rồng ở chân
chuôi thường dành cho vũ khí của võ quan cấp cao, hoặc những người có địa vị đặc
biệt.
🧠 Tóm lại:
·
Rồng tượng trưng cho quyền lực hoàng
gia, sự linh thiêng và bảo hộ.
·
Ở hai vị trí này, rồng vừa đóng vai
trò bảo vệ, vừa như một dấu ấn "chứng nhận" đẳng cấp cho chủ nhân.
Về niên đại, phong cách chạm
rồng này nếu đi kèm với hình dáng thanh kiếm hơi cong, vỏ gỗ sơn then (hoặc sơn
son thếp vàng), thì hoàn toàn có thể xếp vào khoảng thế kỷ 17-18, giai đoạn Hậu
Lê - Trịnh.
(Tham khảo
ngày:14/4/2025)
TÌM HIỂU
VỀ KIẾM TRUNG HOA VÀ VIỆT NAM.
(Nguồn: Hiệp
Khí Đạo Forum).
Trích đoạn:
- Ngoài
ra kiếm được dùng rộng rãi vì các lý do sau đây:
* Thứ nhất, kiếm được coi là vật tượng trưng
cho quyền lực và địa vị như hoàng đế thường ban cho các đại thần thân tín
"Thượng phương bảo kiếm" có quyền sinh sát, chém trước, tâu sau.
* Thứ hai, kiếm được các vị đạo sỹ lấy làm
pháp khí dùng trong khi làm lễ về tôn giáo, nói rằng kiếm có thể " hàng
yêu, trừ ma"
* Thứ ba, kiếm được coi là tiêu chí biểu thị
địa vị và đẳng cấp trong lễ nghi. Sách vở cổ có ghi chép lại chế độ đeo kiếm
rất nghiêm ngặt như người đeo kiếm tuổi tác khác nhau, địa vị khác nhau thì kim
loại và đá quý trang sức trên kiếm cũng phải khác
* Thứ tư, trong chiến tranh kiếm được coi là
vũ khí để tự vệ khi các vũ khí dùng trong chiến trận bị hư, gãy. Trong thời
bình kiếm được coi là một thứ trang sức phong nhã, văn thân hoc sĩ đeo kiếm để
tỏ ra mình là cao nhã không dung tục. Vả lại cái đẹp của kiếm vừa thư vừa hùng
nên cho dù nam hay nữ đều có thể đeo và sử dụng
- Về hình dạng kiếm của Việt Nam có hai loại: Loại
hai lưỡi bén và loại một lưỡi bén còn gọi là gươm. Loại kiếm có
một lưỡi bén xuất hiện từ khoảng 1400 dến 1800 có hình dạng giống Liễu diệp đao
của đời nhà Minh bên Tàu.