b/ Dùng ván che chắn để
tràn lên tấn công?
Việc này chỉ có thể
tránh được đạn đạo thẳng. Còn như đối phương dùng súng thần công tác xạ từ xa.
Dùng súng hỏa mai, thủ pháo, địa lôi chờ lúc quân Tây Sơn đến vừa tầm mới bắn,
ném, kích nổ thì khó mà tránh khỏi bị thương vong lớn. Những đợt tấn công lộ
liễu như thế rất dễ bị đối phương bẻ gãy bởi hỏa lực phòng thủ mạnh, dồi dào
của quân phòng thủ nhà Thanh. Muốn chiến thắng được khi địch phòng thủ vững chắc và
có hỏa lực mạnh như thế này phải có lực lượng hùng hậu gấp mấy lần và vũ
khí vượt trội hơn đối phương. Và phải mất rất nhiều thời gian đánh phá. Không
thể cấp thời trong vòng một vài ngày mà được.
Dẫn: “…đồn báo của
quân Tàu, gác súng lớn, chôn ngầm địa lôi, cách phòng thủ rất kiên cố
".
Quân Thanh
với sự phòng thủ kiên cố, cẩn mật nhiều tầng lớp như dẫn nguồn ở trên. Quân Tây
Sơn muốn tràn vào đánh chiếm công khai trực diện cho mau chóng thật khó mà thực
hiện.
Như vậy khó có thể cho
việc "Dùng ván che chắn để tràn tấn công" này làm mũi
tiến công chính để đánh chiếm đồn trại, thành quách một cách nhanh gọn cho
được. Mà phải nói rằng. Đây là sự phối hợp tác chiến giữa các đơn vị địa phương
và lực lượng đặc công rất tuyệt vời của vua Quang Trung. Khi bị lực lượng đặc
công đột nhập đánh phá từ bên trong, hàng ngũ phòng thủ của quân
Thanh sẽ bị phân tán, rối loạn dẫn đến suy yếu. Tận dụng cơ hội này lực lượng
dân quân địa phương chờ sẵn bên ngoài mới " Dùng ván che chắn để
tràn tấn công " chiếm đoạt thành lũy của quân Thanh một cách dễ
dàng và nhanh chóng.
Dẫn: Sau này khi quân Pháp vào xâm chiếm
nước ta. Quân Pháp được trang bị các loại vũ khí tối tân, được pháo binh yểm
trợ tàn phá, càn quét mục tiêu trước mỗi khi tấn công ( Tiền pháo, hậu xung ).
Trong khi nghĩa quân của ta chỉ với vũ khí thô sơ, phải đương đầu, gánh chịu
sức tàn phá khủng khiếp của hỏa lực pháo binh do quân Pháp bắn vào. Ấy vậy mà
quân Pháp cũng đã phải mất bao nhiêu ngày, hao tổn rất nhiều người và đạn dược
mới hạ nổi một cái thành của quân ta. Thử hỏi quân Thanh với sự trang
bị vũ khí đến tận răng, có đồn lũy phòng thủ chắc chắn, quân số đông đảo. Trong
khi quân Tây Sơn chỉ có dao nhọn để tấn công? Sự thể như thế quân Tây Sơn có dễ
dàng đánh thắng nhanh chóng như chẻ tre được không?
c/ Dùng ống vọi truyền hô.. có tiếng dạ đến vạn người…
Nếu thuần túy chỉ có bao vây bên ngoài
rồi bắc vọi hô hoán kêu gọi. Bên trong quân Thanh phòng thủ kỹ, có đội ngũ vững
chắc, vũ khí đạn dược dồi dào thì chuyện hô hoán từ bên ngoài làm họ bị hoảng
sợ dẫn đến phải đầu hàng? Rất khó có thể xảy ra! Ngoại trừ trường hợp bị bao
vây lâu ngày dẫn đến đói khát, khổ sở chịu không nổi mới phải ra hàng. Nhưng ở đây với thời gian ngắn, chỉ có một ngày thì sự việc này lại khác. Phải có nguyên do nào đó tác động
mạnh từ bên trong bùng ra mới dẫn đến chuyện tan rã đầu hàng một cách chóng vánh, vô điều kiện như vậy!
Phải chăng lực lượng đặc công của Tây Sơn đã lọt được vào bên trong cứ điểm phòng thủ của
quân Thanh đánh bung ra và bên ngoài dùng ống vọi truyền hô cùng tiếng reo hò vang dậy mới dẫn đến cớ sự. Chiến thuật “ nội công ngoại
kích ”. Và việc dùng loa mục đích đánh vào tâm lý đang hoang mang của quân Thanh càng thêm rối loạn, một cách hỗ trợ cho các đơn vị đang đánh chiếm chiến thắng mau chóng hơn.
d/ Trên lưng mỗi con voi có ba, bốn người lính
chít khăn đỏ, ngồi ném tung hỏa cầu lưu hoàng ra khắp nơi, đốt cháy cả người
nữa.
Việc này minh chứng rất cụ thể cho việc quân Tây Sơn đã khai thác
được tính ưu việt của chất nổ, cũng như đã biết cách chế tạo
chất hủy diệt nhỏ gọn để sử dụng trong việc tấn công. (Có vẻ như lựu đạn tấn
công ngày nay).
* Theo Đông Tây nhật báo - 1939 (Tài liệu của Thư viện tổng hợp Bình Định) thì khi quân Tây Sơn bắt đầu tiến vào Thăng Long đã bắt trọn được một số cánh quân Tàu đang lúc chúng vui chơi say túy lúy. Vua Quang Trung sai lính lột lấy quân phục quân nhà Thanh cho quân Tây Sơn mặc vào, mỗi người phải bôi một vết vôi trắng ở cánh tay, để phân biệt với quân Thanh.....
......……Bọn Tôn Sĩ Nghị ham mê tửu sắc
đến nỗi quân Tây Sơn đã tiến vào đến tả doanh, ngọn lửa bốc sáng rực góc trời
(ba giờ đêm hôm mồng 3) mà vẫn tưởng quân mình say rượu để thất hỏa! Kíp đến là
đạn nổ tứ bề, quân reo như sấm. Quân lính chém nhau loạn xạ, khổ nỗi quân Thanh
đâu cũng thấy quân mình nhưng lại bị "quân ta chém quân mình" ngã như
rạ. Vì chúng có biết đâu trang phục thì quân Thanh nhưng người là quân Tây Sơn…
Đúng với phong cách, hành cử của đặc công: Bí mật đột nhập, giả dạng, thủ tiêu, mở trận đột kích ban đêm, phá hoại, hủy diệt các kho đụn gây hoảng loạn ngay từ trong lòng địch...v..v...và còn dùng nhiều thủ thuật khác khi hành động để đạt bằng được mục đích một cách bất ngờ nhất đưa đối phương vào thế bị động.
IV – Lập luận về chiến lược và thuật tấn
công dẫn đến chuyện tốc thắng.
A - Thử đưa ra một số giả thiết về chiến
lược của Vua Quang Trung:
Trong chiến tranh chống ngoại xâm của
dân tộc Việt Nam qua
các thời kỳ lịch sử cho thấy. Khi lực lượng của ta bị yếu thế. Những nhà cầm
quân tài ba đều chọn lối đánh du kích, dựa vào thế địa thế hiểm trở của rừng
núi, khí hậu khắc nghiệt của vùng nhiệt đới mà trường kỳ kháng chiến làm cho đối phương bị tiêu hao, mòn mỏi
kiệt quệ về mọi mặt, dẫn đến chuyện chán nản, làm những chuyện thất nhân tâm …
Điển hình là cuộc kháng chiến của vua Lê Lợi…Nay trước sức tấn công ồ ạt của
quân Thanh. Quân Tây Sơn cũng đã tạm thời lui quân về trấn giữ ở dãy Tam Điệp
chờ cơ hội…
Dẫu là vậy! Nhưng mỗi thời mỗi khác. Riêng
với trường hợp Nguyễn Huệ bị rơi vào tình huống khá đặc biệt. Một mình phải chống
chọi, đối phó cùng lúc đến ba thế lực hùng mạnh: Nhà Hậu Lê, quân
Thanh và nhà Nguyễn Ánh ở phương Nam … Thù trong giặc ngoài. Không thể chia
binh kháng cự cùng một lúc. " Mãnh hổ nan địch quần hồ ". Bẻ
đũa không thể cả nắm. Chỉ có thể bẻ gãy từng phần nên buộc Nguyễn Huệ phải chọn
đối thủ để giải quyết cho bài toán hóc búa thời cuộc. Và quân nhà Thanh là
đối tượng được chọn. Ông xem đây là đối thủ cần triệt hạ trước tiên. Chính Tôn sĩ Nghị nhà
Thanh này lúc đó cũng đang muốn dùng lực lượng đang sung mãn của mình tiêu diệt nhà Tây
Sơn theo yêu cầu của vua quan nhà Hậu Lê để thống trị nước Đại Việt chúng ta.
Với khẩu hiệu. " Chống giặc ngoại xâm ". Sự lựa chọn này đã giúp vua
Quang Trung dành được chính danh với dân tộc và được mọi người dân yêu nước ra
sức ủng hộ. Khi đã chỉ mặt được đối thủ. Cần phải làm sao thanh toán cho thật
nhanh gọn. Thời gian không cho phép kéo dài, càng kéo dài càng bất lợi vì
còn phải lo đối phó với hai thế lực thù địch cùng chung nòi giống đang sờ sờ
sau lưng chờ cơ hội nhà Tây Sơn sơ hở để tấn công tranh giành lợi quyền. Thực
tế lúc đó vua Quang Trung cũng chưa thu phục hết được sự tin yêu của giới sĩ
phu Bắc Hà… bằng chứng là Nguyễn hữu Chỉnh, Vũ văn Nhậm dễ dàng trở thành chuyên quyền do có sự ủng hộ của những thế lực không khâm phục Nguyễn Huệ... vẫn còn hoài vọng vào nhà Hậu Lê và Chúa Trịnh.
Nếu như phân định dựa theo sách lược Thiên
thời – Địa lợi – Nhân hòa. Tạm thời có thể chia ra như sau. Nhà Hậu Lê chiếm
thiên thời. Nhà Nguyễn Ánh ở phương Nam chiếm địa lợi vì được thừa
hưởng công sức gây dựng từ thời các Chúa Nguyễn để lại. Nhà Tây Sơn tạm coi như
đang giữ thế Nhân hòa.
Khi cho là nhà Tây Sơn
chiếm Nhân hòa cũng có lý do của nó. Sự việc bắt nguồn từ cuộc nội chiến dai
dẳng của hai miền Nam Bắc giữa hai thế lực Trịnh, Nguyễn đã làm cho dân chúng
điêu đứng khổ sở… Con dân của hai miền đều phải chịu áp chế đóng góp không ngừng
về nhân lực cùng tài lực chỉ để phục vụ cho cuộc tranh giành quyền lợi giữa hai
họ Trịnh - Nguyễn… Dân chúng bị vắt đến cạn kiệt, khổ sở chết chóc triền miên,
tương lai vô vọng đâm ra chán nản… Bởi vậy khi nhà Tây Sơn dấy lên lấy danh
nghĩa phù Lê diệt Trịnh. Chống quân Thanh xâm lược. Chống lại áp bức của triều
Nguyễn. Mọi người ùa theo hưởng ứng. Việc này một phần nào lý giải cho
điều. Tại sao nhà Tây Sơn tuyển quân được nhanh, nhiều, dễ dàng và hiệu quả như
thế ở nhiều địa phương trên khắp nước.
Giả thiết về chiến lược của Nguyễn
Huệ:
1 * Ngay từ khi cho
rút quân về Tam Điệp (10). Nguyễn
Huệ đã có sẵn dự kiến để đối phó với quân nhà Thanh nên đã tổ chức một số trận
đánh dành lấy sự " thất bại " để cho quân Thanh đắc chí, khinh địch,
chủ quan.
2 * Để nắm vững chắc
về tình hình, tổ chức của đối phương. Khi rút lui Nguyễn Huệ đã cho cài lại một
số quân tướng tinh nhuệ, sống trà trộn vào dân chúng nằm im theo dõi, điều
nghiên, ghi chép chi tiết tình hình hoạt động, cùng cách bố phòng của đối
phương thật đầy đủ và chính xác. Nắm vững mọi khía cạnh của đối
phương là yếu tố cốt lõi cực kỳ quan trọng không thể thiếu trong chiến thuật
đặc công. Mọi sự đều dựa vào đó mà triển khai cho những trận đánh sau
này, nó quyết định cho sự thành bại của cuộc tấn công. Giúp cho ít thiệt
hại về quân số, tạo được bất ngờ, dành được thế chủ động ngay từ khi khai cuộc
mà không cần dùng quân số đông.
3 * Những binh tướng cốt cán
được cài lại đã ngấm ngầm chiêu mộ, tổ chức, huấn luyện cho các lực lượng dân
quân trừ bị tại từng địa phương để sử dụng khi hữu sự.
4 * Cho tuyển
riêng, để huấn luyện đào tạo một lực lượng đặc biệt cực tinh nhuệ, chuyên chiến
đấu về ban đêm. Quân số mỗi đội quân chừng vài chục người. Dùng làm mũi tiến
công chính. Tạm gọi là " đặc công ". Một lược lượng ưu việt,
thiện chiến. Lấy ít thắng nhiều và tận dụng tối đa vào yếu tố bất ngờ.
5 * Khai thác triệt
để địa phương tính và vùng miền. Bởi những người dân sinh sống tại chỗ nắm
rất vững địa hình địa vật. Họ là những nhân tố hỗ trợ rất tốt cho việc che dấu,
nuôi dưỡng, làm tai mắt, hướng dẫn cũng như việc trinh sát vì thông thạo đến
từng ngõ ngách địa hình nơi địa phương mình sinh sống. Và quân Thanh cũng ít để
ý, nghi ngờ với dân chúng địa phương. Tránh việc có mặt những người lạ về sống
đông đảo, sẽ làm cho quân Thanh đề phòng và chúng khó mà để cho dân chúng yên
ổn khi cảm thấy bất an. Giảm mất đi yếu tố bất ngờ…
6 * Lực lượng dân quân địa
phương này được huấn luyện kỹ năng chiến đấu, giao cho nắm thế hỗ trợ chính. Họ
sẽ đảm trách nhiêm vụ nổi lên tiếp chiến, chiếm giữ, tiếp quản các đồn trại mới
đoạt được, đồng thời cũng là nút chặn để bắt các tàn binh quân nhà Thanh tháo
chạy.
7 * Cách hành binh của
Nguyễn Huệ khi dùng đường bộ hoặc đường thủy chủ yếu là di chuyển những đơn vị
hậu cần và dùng làm nghi binh, áp dụng chiến thuật " dương đông kích tây
".
8 * Thật ra Nguyễn Huệ đã
cùng Ban tham mưu và những thành phần tướng lãnh cốt cán, cần yếu đã âm thầm
lặng lẽ ra đến điểm tập kết trước đó nhiều ngày để lãnh đạo, chỉ huy
những đơn vị dân quân địa phương đang trực chiến sẵn tại từng vùng và họ dùng
cách di chuyển lẻ tẻ, bằng ngựa. Có như thế mới nhanh chóng được. Các đơn
vị quân chính còn lại đi theo đội ngũ di chuyển rầm rộ gây cho quân Thanh sự
chủ quan, khinh địch…
9 * Quân Tây Sơn thua to vài
trận, phải rút về cố thủ ở dãy Tam Điệp. Nguyễn Huệ thì còn ở mãi tận trong Phú
Xuân. Một khoảng cách quá xa, muốn tiến đánh ra Bắc Hà cũng phải mất cả tháng
trời di chuyển. Với tình hình như thế cộng với tai mắt được rải khắp nơi, quân
Thanh sẽ không phải còn lo sợ cho việc quân Tây Sơn kéo ra đánh úp bất ngờ và
nếu có sự chuyển quân sẽ phát hiện ra ngay và có thời gian để tổ chức
phòng thủ.
10 * Chuyện chuyển 05 đạo quân từ trong Phú Xuân ra Nguyễn Huệ cố tình
làm lộ liễu. Chiến lược cố ý của nhà Tây Sơn làm cho quân Thanh dồn quân
bố phòng để đối phó sẽ phát sinh những sơ hở nhất định để cho kỳ binh Tây Sơn
khai thác chiếm ưu thế! Cũng là một yếu tố làm cho quân tướng nhà Thanh chủ
quan vì cho rằng đã nắm rõ được từng bước quân Tây Sơn di chuyển như thế
nào dẫn đến khinh xuất lơ là.
Tóm lại: Có thể nói là
Nguyễn Huệ và Ban tham mưu đã âm thầm thực hiện nhiều kế sách để đối phó với
quân nhà Thanh đến từng vụ việc một cách cẩn trọng thần tình. Nhất là phương
diện đào tạo, huấn luyện sử dụng dân quân ở từng địa phương trên đường đi qua,
theo kiểu cuốn chiếu. Dùng cách này, không phải lo lắng về vấn đề vận chuyển
lương thảo, ít hao tốn sức lực cho quân lính do không phải đi xa, tận dụng được
yếu tố che dấu và bất ngờ. Chỉ có như thế mới giữ được bí mật, mới tập trung
được nhanh chóng, đông đảo trong một thời gian ngắn. Gần như, khi tiếng súng
vừa nổ ra là dân quân địa phương đã tràn ngập khắp nơi. Đây là giả
thiết để giải thích cho việc di chuyển thần tốc không thấy để lại dấu vết của
quân Tây Sơn khi hành binh là vậy...
Dẫn: Ngày 29, quân đi đến Nghệ An
thì trú lại đó hơn mười ngày. Lựa thêm tráng đinh xứ Nghệ, cứ ba tên lấy một,
thúc vào quân đội. Cộng cả các quân cũ và mới có được hơn mười vạn và mấy trăm
con voi. Làm lễ đại duyệt xong, lại bắt đầu tấn phát.
(Nguồn: Lại
nguyên Ân. “ Chiến thắng Ngọc Hồi, Đống Đa năm Kỷ Dậu 1789 ” Bài viết của cụ
Phan Khôi).
B - Vua Quang Trung dùng lực lượng "đặc
công" để phá quân Thanh?
Có thể nói. Những nhà nghiên cứu về quân Tây
Sơn, không ai là không biết về chuyện ba anh em Nguyễn Huệ đã từng bị cho là “
thảo khấu ”. Mà đã là giới thảo khấu thì chuyện vượt chướng ngại vật, đào ngạch
khoét vách khi xâm nhập vào các địa hình ắt phải thuần thục và sử dụng
ngón nghề một cách linh hoạt mỗi khi hành động. Phải chăng những lực lượng xung
kích của Nguyễn Huệ đã được huấn luyện đầy đủ, cũng như phát huy thêm được
những kỹ năng của giới thảo khấu, đạo chích đem ứng dụng vào quân cơ.
Biết người, biết ta…Không thể đối
đầu trực diện với những đội quân đang có lợi thế về quân sự. Phải dùng mưu...
lấy ít thắng nhiều. Nhất là phải nhanh gọn, cấp tốc. Phải phát huy được sức mạnh cận chiến, yếu tố bất ngờ, tốc độ và hạn chế sự thương vong. Chính thế mà Vua
Quang Trung đã sáng tạo ra chiến thuật “ đặc công ”. Một chiến thuật quá mới mẻ, thật xa lạ chưa từng thấy trong binh pháp đem áp dụng cho chiến trường trong giai đoạn đó nên đã làm cho quân Thanh bị bất ngờ và bị tiêu diệt một cách nhanh chóng. Theo thiển nghĩ cá nhân. Chỉ có
lối đánh đặc công mới có được hiệu quả cấp thời nhanh gọn như thế. Khó có chiến thuật nào khác có thể mang lại chiến thắng một cách thần kỳ như vậy. Để minh chứng. Xin
viện dẫn trong sử sách của chúng ta có ghi một số câu quen thuộc với mọi người
gần như là thành ngữ khi nói về trận đánh năm Kỷ Dậu của vua Quang Trung. Rất
gần gũi với giả thiết sử dụng " đặc công ":
* Trong một báo cáo, Trần Nguyên Nhiếp, một đô ty trong quân Tôn sĩ Nghị ghi lại: " Ngờ đâu Nguyễn nghịch quỷ quyệt nên đã sắp đặt gian tế khắp nơi, lẻn vào doanh trại thám thính hư thực... Những nơi chứa lương hướng, hỏa khí của ta đều có tai mắt của giặc ".
( Nguồn Tuổi Trẻ online ).
Điều này chứng tỏ một số quân Tây Sơn đã được huấn luyện kỹ năng tác chiến của đặc công khi được cài lại để thực thi nhiệm vụ.
* " Ngày 29, quân đi đến Nghệ An thì trú lại đó hơn mười ngày. Lựa thêm tráng đinh xứ Nghệ, cứ ba tên lấy một, thúc vào quân đội ".
( Nguồn: Bài viết của cụ Phan Khôi )
Một cách dụng binh. " Quý hồ tinh bất quý hồ đa "
*
"....Ông phân quân cũ cho các tướng còn tự mình chỉ huy số quân mới
tuyển để những người lính mới yên tâm chiến đấu ".
(nguồn Wikipedia)
Có thể số quân được cho là mới tuyển
này là lực lượng đặc công được huấn luyện theo diện đặc biệt và đã vượt qua
được những kỳ tuyển trạch kỹ lưỡng để đi theo vua Quang Trung làm nhiệm vụ.
* “ Trong suốt cuộc hành quân bắc tiến, đạo quân
chủ lực do đích thân Quang Trung chỉ huy là đạo quân giao chiến nhiều nhất ”.
(Nguồn Wikipedia)
Điều này cho thấy đạo quân này là một lực
lượng rất tinh nhuệ và rất thiện chiến, có hành tung bí mật do Nguyễn Huệ trực
tiếp sử dụng. Phù hợp với cách tổ chức, hành xử của lực lượng đặc công “ Quý hồ tinh bất quý hồ đa ”.
* " ....quân Tây Sơn bắt đầu tiến vào Thăng Long đã bắt trọn được một số cánh quân Tàu đang lúc chúng vui chơi say túy lúy. Vua Quang Trung sai lính lột lấy quân phục quân nhà Thanh cho quân Tây Sơn mặc vào, mỗi người phải bôi một vết vôi trắng ở cánh tay, để phân biệt với quân Thanh...."
( Nguồn. BaoBinhDinh ).
Phù hợp với kỹ thuật tác chiến của đặc công: Thủ tiêu, giả dạng để đột nhập vào lòng địch...quân số cốt ở tinh nhuệ không cần đông. " Quý hồ tinh, bất quý hồ đa".
* " Khi Vua Quang Trung vào đến thành
Thăng Long, áo bào đẫm mùi thuốc súng…".
(Nguồn Lịch sử Vệt Nam).
Chứng tỏ vua Quang Trung đã trực tiếp tham chiến cùng binh lính của mình trong trận đánh sinh tử với quân Thanh. Chứ không hề ngồi trên lưng voi để chỉ huy như ta thường nghĩ...
* "...ngồi ném tung hỏa cầu lưu hoàng ra khắp nơi, đốt cháy cả người nữa ".
( Nguồn Phan Khôi )
Điều này chứng minh cho việc quân Tây Sơn đã sử dụng bộc phá ( hỏa cầu ) rất
nhiều khi tấn công ( Đặc điểm của lối đánh đặc công. Vũ khí để tiêu diệt mục tiêu của địch
là chất nổ ). Như vậy việc cho rằng sử dụng chất nổ rất có cơ sở. Phải dùng
nhiều và liên tục thì mùi khói thuốc súng, bụi mới đủ sức ám vào quần áo. Nếu
dùng súng hỏa mai, khi bắn khói phụt a phía trước sẽ tan loãng vào không khí.
Nên nhớ súng ngày xưa còn thô sơ bắn một phát phải mất một thời gian để nạp
thuốc và đạn. Chính thế mà mùi thuốc khó mà bám nhiều vào quần áo. Còn nếu dùng
pháo binh thì quả đạn nổ nằm bên địch không thể ám mùi thuốc súng vì điểm nổ
quá xa. Còn nếu như của địch bắn đến mà quả đạn nổ gần thì chỉ có nước "ám tử" chứ không "ám khói"…. Khi người đặc công dùng chất nổ tiếp cận đánh phá mục tiêu thường có khoảng cách gần. Khi trái hỏa cầu nổ, sức công phá sẽ bạt ra một cụm khói bụi lẫn mùi thuốc súng bao phủ một diện tích rộng làm ảnh hưởng luôn đến người hành sự hoặc sau khi quả hỏa cầu vừa nổ xong người lính lập tức ào đến để tiến
chiếm mục tiêu thì mùi thuốc súng khi ấy mới dễ ám ngấm vào quần áo.
* " Quân Tây Sơn như trên trời
rơi xuống, dưới đất chui lên ".
( Nguồn. Lịch sử Viêt Nam ).
Việc này chứng tỏ quân Tây Sơn đã nằm sẵn đâu đó
trong lòng địch. Chính lực lượng đặc công đã lọt vào bên trong, áp sát chờ sẵn
ở những nơi trọng yếu. Đúng thời điểm họ đồng loạt triển khai tập kích từ bên
trong bung ra đánh phá khắp nơi. Quân Thanh không hiểu được nguồn cơn tại
sao. Cứ tưởng là trên trời rơi xuống. Dưới đất chui lên.
* "...quân Tây Sơn đã tiến vào đến tả doanh, ngọn lửa bốc sáng rực góc trời (ba giờ đêm hôm mồng 3)....."
( Nguồn. BaoBinhDinh ).
Chiến thuật cốt lõi của đặc công là chuyên đánh về ban đêm. Đột kích vào lòng địch, tạo ra những sự cố cháy nổ bất ngờ ngay nơi trung tâm gây hoang mang, hoảng sợ cho địch. Kiểu... từ bên trong đánh ra.... đánh rắn phải đập vào đầu...
* " Tôn
sĩ Nghị không kịp thắng yên ngựa, bỏ cả ấn tín tháo chạy...".
(Nguồn. Lịch sử Việt Nam)
Điều này càng minh chứng rõ cho việc đặc công Tây Sơn
đã kín đáo đột nhập nằm sẵn bên trong, ngay trung tâm đầu não quân nhà Thanh,
rồi đồng loạt tập kích khiến Tôn sĩ Nghị không kịp trở tay, bỏ cả ấn tín mà
chạy. Chỉ có đặc công mới đủ sức thực hiện được những chuyện như thế này.
* “ Dùng ống vọi truyền hô.. có
tiếng dạ đến vạn người…”
(Nguồn. Phan
Khôi)
Có thể cho rằng. Đây là
bài viết có mang dấu ấn của lối đánh đặc công được nhà văn Phan Khôi nhắc đến.
Việc này cũng minh chứng cho việc quân Tây Sơn có dùng đặc công để tập kích đối
phương. Vụ việc đã chứng tỏ rằng đặc công của Tây Sơn lọt được vào trong đồn
quân Thanh rồi đánh bung rộng ra, đồng thời reo hò hô hoán, làm cho đối phương khủng
hoảng tinh thần. Đã thế, bên ngoài lại còn bị bao vây dùng ống vọi phụ trợ.
Quân Thanh càng thêm hoảng hốt, không còn cách nào hơn là phải tháo chạy, đầu
hàng...
Qua sự kiến trải thực tế của chính bản thân người viết. Những người lính đặc công thời
nay lâm trận. Khi thấy đã làm chủ được tình hình một phần nào, họ nhất loại
cùng reo hò, hô vang: Xung phong…bắt trói. Hàng sống...chống chết…mục đích làm
cho đối phương khiếp vía, mất tinh thần dẫn đến rã ngũ trốn chạy, để dễ bề khống chế trận địa, mau chóng làm chủ tình
hình, mở đường cho những đơn vị tiếp viện bên ngoài tiến vào. Cùng cách với giới thảo khấu thường dùng mỗi khi lọt được vào trong
làng, bật hồng (đuốc) đồng loạt hô hoán khắp nơi cướp tinh thần, dân làng hoảng sợ bỏ chạy không còn tinh thần phản kháng để tiện bề cướp
bóc. ( Chuyện này người viết đã từng nghe cha mẹ kể lại... khi bọn cướp đột nhập vào làng...).
Nếu không có được ban tham mưu giỏi. Không có chiến lược, chiến
thuật tinh diệu đã được hoạch định trước một cách chu đáo thì phần thất bại khó
mà tránh khỏi. Chắc chắn Vua Quang Trung và Ban tham mưu của ông đã thấy được.
Phải làm sao đưa đối phương vào thế bị động, chủ quan mới mong dành được thắng
lợi về mình. Phải chọn một lối đánh bất ngờ chớp nhoáng, tiêu diệt thật nhanh
gọn để còn có thời gian đối phó với thế lực Nguyễn Ánh ở phía Nam.
Vì thế mà chiến thuật đánh đặc công đã được Nguyễn Huệ và Ban tham mưu chọn làm
lối đánh chủ công, áp sát. Tiêu diệt địch nhanh gọn ngay từ giây phút đầu trận
đánh đến nỗi không kịp thông báo cho nhau.
Tóm lại: Những điều đã nêu ra ở mục này là một minh chứng rất hùng hồn thật rõ ràng cho việc vua Quang Trung đã dùng chiến thuật đặc công vào Tết Kỷ Dậu (1789). Và với sự thông tuệ về quân sự, cùng kinh nghiệm trận mạc bao lần vào Nam ra Bắc của mình. Nguyễn Huệ và ban tham mưu đã thấu hiểu một cách sâu sắc hơn ai hết về chiến thuật, kỹ thuật đặc công nên đã chọn lối đánh này để tiêu diệt quân Thanh…
C - Thử tìm hiểu
về “ Đặc công ” theo lý giải hiện nay.
Thông thường, mọi người hay nói: “ luận
cổ suy kim ”. Nhưng ở bài viết này lại làm ngược lại là: “ Luận kim suy cổ ”.
“Đặc công” là một lực lượng đặc
biệt tinh nhuệ. Chuyên dùng để đột kích vào đồn trại. Đánh phá từ bên
trong, tiêu diệt đầu não của đối phương tạo lợi thế tuyệt đối về phía mình. Cá nhân được tuyển chọn, huấn
luyện chuyên ngành rất kỹ lưỡng, trang bị vũ khí cùng vật dụng chuyên
môn gọn nhẹ, có sức chiến đấu độc lập, linh hoạt khi tấn công hay âm thầm
ẩn mình trong lòng địch để thăm dò, điều nghiên, phá rối, cài đặt sẵn phương
tiện có khả năng phá hủy vào những cứ điểm, mục tiêu trọng yếu nằm trong lòng
hậu phương của địch chờ lúc hành sự. Lực lượng đặc công thường được sử dụng vào
ban đêm, làm mũi tấn công xuyên phá, tiêu diệt các ổ kháng cự của đối
phương, mở đường cho quân tiếp viện chờ sẵn bên ngoài tràn vào chiếm đóng. Có
hai loại đặc công chủ yếu là: Thủy và bộ. (11)
1. Nhiệm vụ của người lính đặc công.
* Nhiệm vụ trước trận đánh là tìm cách xâm nhập vào trong lòng
địch. Âm thầm điều nghiên, theo dõi nếp sinh hoạt hàng ngày,
nắm rõ những thói quen từng giờ giấc, đường đi nước bước, cách bố phòng hỏa
lực, kho đụn trọng yếu của địch. Mọi sự đều được ghi chép, đánh dấu thật rõ
ràng, phải nắm tình hình của đối phương thật chính xác để đến khi hành sự không bị nhầm lẫn. Đối với các kho đụn, cơ sở đầu não,
họ lẻn đem gài chất nổ vào sẵn chờ đến giờ hành động cho nổ tung, làm đối phương bị hoang
mang không kịp trở tay.
* Khi lâm trận. Trước hết cho nổ hàng loạt các điểm
trọng yếu, cơ quan đầu não đã dự kiến, rồi mới bung ra dùng bộc phá triệt hạ
những ổ phòng thủ, cứ điểm chung quanh. Tìm mọi cách phá hoại, hủy diệt các điểm trọng yếu càng nhiều càng tốt, làm cho đối phương bị tiêu hao, kiệt quệ nhanh chóng về nhân vật lực cùng sức chiến đấu. Phá hủy những
chướng ngại mở đường cho đơn các đơn vị trừ bị trực chiến sẵn bên ngoài tràn
ngập vào chiếm giữ.
* Đứng ở góc độ chiến thuật tác chiến của bộ
binh. Chiến thuật đặc công rất độc đáo. Quân số không cần nhiều, không cần pháo
tầm xa hay phi pháo yểm trợ trước khi hành sự nên yếu tố bí mật được giữ đến
phút chót. Với chiến thuật của lực lượng bộ binh, thông thường trước giờ tấn
công pháo binh sẽ bắn phá vào mục tiêu, dọn đường cho cho việc tấn công. Như
vậy địa điểm sắp bị tấn công đã lộ. Với đặc công, không có chuyện “ tiền pháo
hậu xung ” này.
2. Kỹ năng tác chiến cá nhân:
* Mỗi cá nhân trong biệt đội đặc công là một
người lính tinh nhuệ. Có tinh thần dũng cảm, được huấn luyện, đào tạo rất kỹ lưỡng. Có khả năng hành sự độc
lập, có sức chịu đựng dẻo dai bền bỉ, gan lỳ. Biết cách xử trí các tình
huống bất ngờ một cách linh hoạt và êm thắm, có sự nhận xét rất tinh tế nhạy bén. Từ những kỹ thật che dấu,
ẩn nấp và di chuyển, rất độc đáo không lưu lại dấu vết để cho địch phát hiện.
Thông thạo cách ngụy trang cho phù hợp từng địa hình địa vật. Biết mô phỏng bắt
chước những tiếng động hay tiếng thú nuôi, thú hoang để đánh lạc hướng đối
phương. Vượt chướng ngại vật tiếp cận mục tiêu với những kỹ năng xâm nhập, ẩn nấp, ngụy trang, mưu sinh thoát hiểm có thể thích nghi ở mọi tình huống cùng môi trường để chiến đấu ngày cũng như đêm. Chịu đựng gian khổ, mưu sinh
thoát hiểm độc lập tác chiến đối với họ là gần như là thói quen. Chuyện nằm ẩn mình hàng tháng bên cạnh tuyến phòng thủ hay lọt vào trong các cứ
điểm của địch mà không hề bị phát hiện là điều bình thường.
* Được huấn luyện thành thạo mọi kỹ năng
tác chiến trong đêm tối. Từ cách quan sát, lợi dụng màn đêm để ẩn nấp, di
chuyển áp sát mục tiêu. Và luôn mở trận vào những giờ khuya khoắt. Nhất là vào
khoảng 02, 03 giờ sáng. Thời điểm giấc ngủ mọi người đang say nồng. Lúc đó họ
chỉ phải đối phó với thành phần trực gác ít ỏi của cứ điểm mà thôi. Hay tận
dụng thời điểm lúc đối phương vừa mới thay phiên trực gác vào lúc đêm khuya. Vì
lúc này người đảm nhận phiên gác mới, chưa tỉnh táo hẳn, còn ngái ngủ. Cơ hội
thuận lợi để hành động, dễ đánh lừa được đối phương.
* Biết cách sử dụng các loại vũ khí
từ cá nhân đến cộng đồng. Để khi đột nhập vào trong căn cứ đối phương cướp được
loại nào cũng có thể sử dụng được.
* Trong lúc tiến công đột kích trên đất địch.
Việc di chuyển liên tục là lẽ sống nên không bao giờ ở im một chỗ. Chính sự di
chuyển liên tục này giúp họ có điều kiện khấy động khắp nơi trong lòng
địch, thuận lợi cho việc ném bộc phá hủy diệt những công sự chiến đấu làm cho
đối phương rối loạn cứ tưởng là có đông người. Mỗi khi họ ném chất nổ vào mục
tiêu nào, sau khi nổ, tức thời họ sẽ lao ngay đến điểm đó. Điểm vừa nổ xong cũng là nơi an toàn nhất trên trận địa đối
với người đặc công vì chỗ đến đó đã bị chất nổ hủy diệt.
* Tận dụng những tiếng nổ làm
ưu thế. Những tiến nổ lớn, liên tục sẽ gây sự khiếp sợ, hoang mang cho đối
phương. Một cách khủng bố tinh thần rất hiệu quả. Nếu đối phương bị tập kích
không lấy lại được sự bình tĩnh sẽ rất dễ bị hoang mang, hỗn loạn và dẫn đến sự
tháo chạy.
* Có một đặc điểm mà đặc công hay dùng vào những lúc gần làm chủ tình thế. Đó là sự kết hợp những tiếng hô vang
của họ: Xung phong, bắt trói…Hàng sống, chống chết…v.v…“ Nhất hô vạn ứng ”. Mục
đích vừa làm ám hiệu nhận nhau, vừa để cướp tinh thần, làm mất đi tính kháng cự
của đối phương. Nói tóm lại mỗi cá nhân đặc công là một thành tố có kỹ năng cận chiến rất tốt.
Dẫn: Giống như cách làm của giới
thảo khấu khi đã đột nhâp được vào xóm làng. Chúng đồng loạt bật hồng (đuốc)
sáng rực cả trời, miệng hô hoán, reo hò chém giết làm cho dân làng hoảng sợ chỉ
lo chạy trốn…
3. Trang bị cá
nhân
Dụng cụ trang bị cho còn tùy theo môi trường
và địa hình, địa vật. Cá nhân luôn được trang bị gọn nhẹ, kèm theo một số
phương tiện cần yếu dùng để vượt qua chướng ngại vật do đối phương lập ra, rào
chắn chung quanh căn cứ.
* Khi lâm trận dùng chất nổ, thủ pháo
không miểng là chủ yếu, mang được càng nhiều càng tốt. tránh việc khi nổ miểng
văng sẽ ảnh hưởng đến người sử dụng. Mục đích dùng chất nổ đơn thuần là khai
thác sự công phá, chấn động mạnh để hủy diệt điểm phòng thủ, cũng như người của
đối phương.
* Không trang bị súng trường cá nhân tránh vướng
víu khi hành sự. Nếu có sẽ được trang bị loại vũ khí ngắn, gọn nhẹ kèm theo vật dụng chuyên ngành dùng để
vượt qua các trở ngại do đối phương rào chắn để phòng thủ.
- Vật dụng cần thiết thứ nhất. Một
khúc cây tre cật dẹp. Có bề ngang cỡ 0, 3cm ( ba phân ) dài chừng 0, 50cm (
Năm tấc tây ). Khoét võng hai đầu hình chữ “ V ” để
khi chống vào vật cản nơi hàng rào, khe chữ "V" sẽ giữ cho sợi kẽm gai khi được nâng cao lên không bị tuột. Và
với khoảng hở chừng 0, 50cm họ bò sát đất luồn qua rất dễ dàng,
- Vật dụng cần thiết thứ hai. Với
một cây tre cật khô vót sạch ruột ở hai phần ba phía trên làm sao chỉ còn lớp vỏ thật mỏng cho một độ dẻo cao khẽ đụng đã
mềm oặt. Thanh tre cật này có chiều dài chừng 0, 30cm ( ba tấc). Khi sử dụng tay cầm ở phần dưới đưa
ra phía trước rà qua lại, khi thấy có triệu chứng nặng tay vì có vật cản nào đó
đã làm cho miếng tre bị bị vướng, trì giữ lại. Họ sẽ dùng hai ngón tay của bàn
tay còn lại nắm vào thanh tre vuốt nhẹ lên dần, lần đến chỗ cây tre bị cong xem
vướng cái gì. Một cách thông dụng để phát hiện những sợi dây cước giăng cài mìn
bẫy trong đêm một cách rất hữu hiệu, vì không thề quan sát bằng mắt trong đêm tối được.
- Vật dụng thứ ba. Kềm cộng lực. Dùng để cắt lưới rào ...v..v...
- Vật dụng thứ tư. Dụng cụ hóa trang.
Bột than dùng bôi vằn vện trên mặt và toàn thân trên da người… Ngụy trang để lẫn vào địa hình, địa vật..v..v...
- Trang phục. Cởi trần. Mặc duy
nhất chiếc quần cộc bó sát thân. Trên đầu đôi mũ vải ôm sát sọ che kín đến mang
tai. Tránh sự vướng víu khi dịch chuyển.
Với đặc công thủy chỉ với một cọng rơm, hay
cây sậy họ nằm im dưới nước cả ngày để ẩn nấp thoải mái.
4. Sự
lợi hại của chiến thuật đặc công.
* Lợi thế của chiến thuật đặc
công:
- Nắm vững tình hình là yếu tố tối quan trọng, bắt buộc. Nó quyết định sự thành bại của trân đánh.
- Nắm thế chủ động.
- Lấy ít thắng nhiều.
- Nắm được yếu tố bất ngờ.
- Khai thác triệt để tiếng nổ để áp chế
tinh thần địch ngay từ giây phút đầu. Làm đối phương dễ bị hoảng loạn.
- Dễ tiếp cận, len lỏi vào mục tiêu.
- Vận động chiến nhanh gọn, kín đáo. Địch
khó phát hiện vì tổ chức theo từng toán ít người, hoạt động độc lập.
- Có thời gian điều nghiên kỹ lưỡng, nắm vững
mọi tình huống về đối phương rồi mới tổ chức trận đánh...
- Luôn khởi sự vào ban đêm. Lấy bóng tối
làm lợi thế. Mở màn tấn công hay di chuyển áp sát…địch khó theo dõi, phát hiện.
Có hai trường hợp tác chiến.
a - Trường hợp các đơn vị địch có căn cứ nhỏ,
được phòng thủ kín đáo không thể đột nhập vào bên trong được thì phải áp dụng
chiến thuật tiếp cận, nghiên cứu căn cứ đối phương từ bên ngoài. Lập sa bàn và
tập luyện cho thuần thục. Khi hành sự. Bí mật áp sát tìm theo đường hướng đã
vạch sẵn khi tập luyện, đột nhập lọt vào bên trong dùng bộc phá tập kích tiêu
diệt địch. Trường hợp này thường dùng cách bao vây, áp sát và phải tổ chức thêm
một đơn vị " đả viện "... không cho cứu ứng. Thường được gọi với tên
" Công đồn, đả viện ".
b - Đánh vào các đồn trại lớn. Địa thế rộng
nên địch phòng thủ có phần lỏng lẻo. Đột nhập được vào bên trong nằm sẵn nghiên
cứu, chuyển vũ khí vào cất dấu, cài đặt sẵn bộc phá vào các nơi quan trọng để
khi mở trận sẽ cho nổ tung khắp nơi. Làm địch rối loạn không rõ quân số ta
nhiều ít ra sao. Lối đánh rắn phải đập vào đầu…dành thắng lợi chớp nhoáng hỗ
trợ mở đường cho lực lượng bên ngoài vào tiến chiếm.
* Điểm bất lợi của chiến thuật đặc công:
- Dễ bị bẻ gãy thế trận khi bị đối phương phát hiện
sớm.
- Không có phương tiện, vũ khí cá nhân để chống trả lại đối
phương từ xa vì không được trang bị. Rơi vào thế bị động.
- Không có sự hỗ trợ, cũng như không thể hỗ trợ cho đồng
đội. Vì hoạt động độc lập theo từng tổ nhỏ. Quân số quá ít.
- Khó có thể cầm cự lâu hay vượt thoát khi đã xâm nhập sâu
vào căn cứ bị địch phát giác.
Tóm lại: Với ưu khuyết điểm của đặc công hiện nay vừa nêu trên có lẽ không khác biệt gì cho lắm đối với những hành xử của người xưa. Chắc hẳn nơi trung tâm huấn luyện hiện nay cũng từng khai thác, học hỏi các kinh nghiệm của tiền nhân mà ứng dụng vào những bài học cho khóa sinh...
5. Cách đối phó:
“ Vỏ quýt dày có móng tay nhọn ”.
Một cách chống trả rất có hiệu quả khi bị lực lượng đặc công tập kích là. Khi thấy nổ ở điểm nào thì cứ chĩa súng vào nơi đó, bắn đón đầu. Vì chắc chắn thế nào người đặc công cũng chạy vào nơi đó ( theo đúng bài bản ). Đối với đơn vị phòng thủ. Tất cả mọi người đều đã có điểm ẩn nấp sẵn để chiến đấu như: giao thông hào, công sự cố định nên hầu như nhân sự không có sự chuyển dịch. Mọi sự di chuyển trên mặt đất đều là địch. Chính là mục tiêu để triệt hạ cho dù đó là lính của đơn vị phòng thủ nếu bỏ chạy trên mặt đất cũng sẽ bị bắn. " Lầm còn hơn bỏ sót ".
D – Nhà Tây Sơn giao thương với ai để mua
chất nổ và vũ khí?
Đánh đặc công chủ yếu dùng chất nổ. Một
yếu tố quyết định, không thể thiếu…Vậy nhà Tây Sơn giao thương với ai để mua
nó?
- …Trong số
các nước phương Tây, Bồ Đào Nha là nước đầu tiên có mặt ở Đàng Trong. Theo
Booc-Vút (Birdwood), người Bồ Đào Nha tiến hành các hoạt động giao lưu buôn bán
với Đàng Trong vào khoảng năm 1540, thương nhân Bồ Đào Nha từ Macao hoặc Nam
Dương (Indonesia) đến Hội An vào tháng chạp hoặc tháng giêng bán, mua hàng như
tơ, lụa, hồ tiêu, gỗ quý, thông qua các đại lý người Hoa hay người Nhật ở Hội
An rồi quay thuyền về các căn cứ trên (Macao, Nam Dương).
- …Từ năm 1640 trở đi,
quan hệ buôn bán giữa Bồ Đào Nha với Nhật Bản ngày càng giảm, trong khi đó quan
hệ buôn bán với Đàng Trong lại được tăng cường. Những sản vật mà các thương
nhân mua của Đàng Trong là tơ vàng, một số trầm hương, kỳ nam và một ít
benzoin. Đổi lại, các thương nhân Bồ Đào Nha mang súng ống, diêm tiêu,
kẽm, đồng... có thợ kỹ thuật đi cùng để bán lại cho Đàng Trong. Người Bồ
Đào Nha đã dạy cho chúa Nguyễn kỹ thuật đúc súng nên được các chúa Nguyễn sủng
ái và nể trọng. Sở dĩ như vậy là vì, thời kỳ này xảy ra cuộc chiến tranh giữa
Đàng Trong và Đàng Ngoài nên chúa Nguyễn rất cần mua súng đạn từ xưởng đúc súng
của Bồ Đào Nha ở Macao.
- ….Với tư cách là những người phương Tây đầu
tiên đến Việt Nam, “người Bồ Đào Nha đã cậy có một nền hàng hải khỏe vào bậc
nhất và hung hăng đến chiếm đất đai để buôn bán”.. Mặc dù các thương nhân Bồ
Đào Nha mua đuợc nhiều hàng hoá rẻ của Đàng Trong nhưng họ đến Đàng Trong không
đại diện cho bất kỳ công ty nào và không cư ngụ tại đó nên vị thế của Bồ Đào
Nha ở Đàng Trong về sau bị suy giảm. (12).
( Nguồn: Ngoại thương của Đàng Trong trong quan hệ với
các nước phương Tây từ thế kỷ XVI đến thế kỷ thứ XVII. Bài của NGUYỄN VĂN TẬN -
HOÀNG THỊ ANH ĐÀO. Đăng trên tạp chí Sông Hương )
Theo như sử liệu đã dẫn trên. Như vậy từ
Thế kỷ 15. Việt Nam chúng
ta đã có giao thương với một số nước phương Tây như: Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha
sau này có Pháp. Nhưng có lẽ sự giao thương với người Bồ và Tây ban Nha là
chính. Dựa vào thực tế là Cố đạo Alexandre de Rhodes đã soạn cuốn Tự điển Việt
Bồ La để cho mọi người sử dụng trong giao tiếp ngay ở thế kỷ thứ 16. (Trước Thế kỷ 16 đã có một số vị Thừa Sai đã làm việc này nhưng chưa được hệ thống rõ ràng). Như vậy
chứng tỏ là trước đó người Bồ đào Nha đã có mặt ở Việt Nam rất nhiều. Do đó mới cần
có tự điển để sử dụng. Đó là điều minh chứng rõ nhất cho việc giao thương
này với người Bồ đã có từ trước thế kỷ thứ 16. Có thể cho rằng nhà Tây Sơn mua
bán với người Bồ hoặc Tây Ban Nha chứ không giao tiếp với người Pháp vì lúc đó
Pháp đang ủng hộ cho Nguyễn Ánh. Nếu có giao tiếp sẽ dễ bị phát lộ...
V – Kết
luận.
Như vậy:
* Về phương diện chuyển quân.
- Vua Quang Trung đã cùng một số tướng lĩnh chỉ huy cốt
cán di chuyển chủ yếu bằng ngựa. Phương tiện nhanh nhất của lúc bấy giờ.
- Vận hành theo cách lẻ tẻ, đến nằm ém tại những
địa điểm tập kết ngay từ trước và cùng ban tham mưu hoạch định kế sách, trao đổi, giao
nhiệm vụ cho các lực lượng địa phương nằm im chờ thời điểm tổng tấn công. Sự việc này đã làm cho quân Thanh bị bất ngờ. Họ nghĩ rằng quân Tây Sơn muốn
đánh thắng được họ, bắt buộc phải có một lực lượng thật hùng hậu. Muốn thế phải lấy quân từ trong Thuận Hóa ra, rất mất thời
gian và chúng thừa thời gian tổ chức đối phó.
Việc quân Tây Sơn chỉ dùng kỳ binh và di chuyển theo phương thức du kích, phân tán lẻ tẻ kín đáo, ứng phó tùy theo tình hình rồi tập kích. Điều này khiến cho hậu thế chúng ta đã không thể tìm thấy một dấu vết nào về việc lực lượng chủ công của Tây Sơn hành binh mang tính chất qui mô để tấn công quân Thanh là vậy!
- Quân số. Chủ yếu là dùng lực lượng tại địa phương, lực lượng nồng cốt này vừa hỗ trợ cho đơn vị
đặc công vừa tạo thanh thế để trấn áp đối phương. Bởi vậy khi trận đánh nổ ra quân lính không rõ từ đâu kéo đến quá nhanh chóng và đông đảo, cứ như từ dưới đất chui lên, trên trời
rơi xuống…làm quân nhà Thanh ngỡ ngàng vì trước đó cả một thời gian dài không hề phát hiện được sự chuyển quân lớn nào của Tây Sơn.
- Những đơn vị thủy bộ di chuyển có tính qui mô, hùng hậu từ Thuận hóa kéo ra. Chỉ là lực lượng hậu cần, nghi binh làm cho quân Thanh thêm phần chủ quan, khinh địch.
* Về phương diện tấn công.
- Điều nghiên, nắm bắt rõ từng chi tiết địa hình, cách sinh hoạt thật kỹ lưỡng ngay từ trước khi hành sự.
- Áp dụng lối đánh bất ngờ vào ban đêm.
- Dùng những lực lương đặc công tinh nhuệ đột nhập để tập kích.
- Vũ khí chủ yếu là hỏa cầu, chất nổ...
- Khi khai trận lập tức cho kích nổ để hủy diệt các điểm trọng yếu đã dự mưu từ trước.
- Vừa chuyển dịch nhanh vừa ném chất nổ đánh phá và hô hoán khắp nơi trong lòng địch...Chính những tiếng nổ đánh phá mục tiêu, tiếng hô hoán và những bước chân chạy vang lên khắp nơi làm cho quân Thanh hoang mang, mất tinh thần, cứ tưởng là quân Tây Sơn đông đảo lắm... dẫn đến tháo chạy... Thực ra quân số rất ít. Dụng binh quí ở chỗ tinh, không cần nhiều là vậy!
Với tất cả những dẫn chứng và lập luận trong bài này cho thấy việc Vua Quang Trung dùng lực lượng đặc công để tiêu diệt quân Thanh là rất có
cơ sở, rất rõ ràng, khó mà chối cãi. Có thể nói rằng lối đánh đặc công này được áp dụng vào việc quân sự ở cuối Thế kỷ 18 là một sự kiện quá mới mẻ. Một sáng tạo trong chiến thuật. Một cách tân trong phương sách tấn công ở vào thời điểm kỹ năng tác chiến còn nệ cổ, vũ khí còn thô sơ, đa phần chỉ dựa vào quân số đông để áp đảo mà chiến
thắng đối phương. Có thể khẳng định, đây là một sự kiện đặc biệt chưa từng xảy ra trong lịch
sử giao tranh giữa quân đội Việt Nam và
Trung Quốc. Trong quân sử Việt cũng chưa từng thấy có ai đem ngón nghề của giới lục lâm, thảo khấu, đào
ngạch khoét vách áp dụng vào chiến thuật quân sự. Việc sáng tạo ra kỹ năng " đặc công " và đem ứng dụng vào thuật tấn công địch một cách tài tình của Vua Quang Trung tạo ngay được hiệu quả và đã gây ra biết bao sự
bất ngờ. Khiến cho đối
phương ngỡ ngàng, hụt hẫng không kịp trở tay, không thể chống đỡ, đối phó... do bởi vấp phải sự kiện quá mới mẻ, quá khác lạ so với những gì đã từng học hỏi qua những binh pháp xưa cũ.
Quân nhà Thanh của Tôn sĩ Nghị đã rơi vào tình huống này vào năm
Kỷ Dậu (1789) trên đất Thăng Long và đã phải bỏ cả ấn tín mà chạy tháo thân trước thiên tài quân sự Nguyễn Huệ là vậy! Nếu ta cho rằng Vua Quang Trung Nguyễn Huệ là cha đẻ của chiến thuật của " ĐẶC CÔNG "(13) của Việt Nam cũng là điều xứng đáng.
Toát yếu:
NHỮNG BẤT LỢI TRONG VIỆC HÀNH QUÂN TIẾN CÔNG TỪNG ĐƠN VỊ LỚN.
* Khi dùng quân số đông sẽ bị lộ liễu, chậm chạp.
* Gây nhiều tốn kém, khó khăn về mọi mặt khi vận chuyển.
* Có thể sẽ bị đánh chận từ xa.
* Đối phương nhận biết sẽ tổ chức phòng bị.
* Không thể chiếm thành lũy của địch nhanh chóng do đối phương đã
phòng bị.
* Muốn đánh nhiều nơi một lúc phải có quân số thật nhiều.
* Không tạo được yếu tố bất ngờ. Những nơi chưa bị đánh sẽ phòng
thủ chắc chắn.
NHỮNG THUẬN LỢI CỦA CHIẾN THUẬT ĐẶC
CÔNG.
* Hoạt động độc lập khi bước vào chiến dịch và sẽ tùy nghi tác chiến với ý tưởng đạt được hiệu quả cao nhất của mệnh lệnh được giao phó.
* Khai thác được nhiều điểm thuận lợi trong việc tận dụng bóng tối
vì thường mở trận đánh vào ban đêm.
* Đánh lúc sơ kỳ bất ý. Tận dụng được yếu tố bất ngờ, làm địch
không kịp trở tay. Dễ dẫn đến vỡ trận.
* Từ trong đánh ra dễ làm cho tinh thần địch bị hoảng loạn.…tạo
điều kiện cho lực lượng hỗ trợ bên ngoài tiến chiếm.
* Binh không cần nhiều, cốt ở tinh nhuệ, thiện chiến, biết sử lý
tình huống cấp thời mang nhiều thuận lợi cho việc đánh phá. Yếu thắng mạnh.
* Nắm thế chủ động. Biết rõ về địch, mà địch không biết gì về ta,
đưa đối phương vào thế bị động. Muốn đánh hay không tùy ý.
* Giữ được bí mật cho đến khi hành sự. Thuận lợi cho việc xâm nhập
bằng nhiều cách, khai thác mọi tình huống, mọi phương diện để trà trộn vào nằm
vùng nơi hậu phương, nắm bắt được mọi sơ hở những nơi trọng yếu của đối phương.
Có điều kiện, thời gian để cài đặt phương tiện đánh phá vào lòng địch.
* Có thời gian cùng điều kiện để phối hợp với các lực lượng bạn chung
quanh cùng tiến công. Nội công ngoại kích.
Dẫn: Một đơn vị đồn trú được canh gác cẩn mật. Đang
đêm bất chợt nghe tiếng nổ đinh tai khắp nơi ngay sau lưng trong phòng tuyến
của đơn vị. Chắc chắn sẽ bị hoang mang, khủng hoảng tinh thần, hoảng loạn không
phân biệt được bạn thù, dễ nhầm lẫn bắn giết lẫn nhau.
* Nhờ dùng bộc phá có sức hủy diệt lớn nên dễ dàng trấn áp được
nhanh gọn. Yếu tố cực kỳ quan trọng, quyết định của trận đánh.
* Di động cùng khắp. Gây hoang mang cho địch, không rõ lực lượng
tập kích ít hay nhiều.
Dẫn: Giống như khi bọn cướp thời xưa, sau khi lẻn
vào xóm làng xong, bất ngờ cho bật đuốc đỏ trời, xông vào la hét làm cho dân
làng hoảng sợ bỏ chạy để tiện bề cướp bóc.
KHÁI LƯỢC VỀ THUẬT TẤN CÔNG MỤC TIÊU CỦA ĐẶC CÔNG.
Sau khi
thực tập trên sa bàn, cùng phương cách phối hợp với đồng đội đã nhuần nhuyễn.
Các thành phần tham chiến sẽ được BCH chính thức giao nhiệm vụ chi tiết đến
từng tổ, từng cá nhân đã được chọn lựa lần chót và lúc này mới cho biết giờ hành sự. Trước
khi công đồn. Các nhóm sẽ phân tán mỏng theo từng tổ, lẻn vào áp sát, nằm chờ
sẵn ở những nơi đảm trách chờ đêm đến. Khi nghe hiệu lệnh. Các mũi tiến công
nhất loạt cùng nổi lên kích nổ vào mục tiêu, phá hủy các chướng ngại vật đã
được giao phó. Tiếp đến triển khai tác chiến cá nhân, ném bộc phá triệt hạ
những điểm kháng cự của đối phương…gây náo loạn trên trận địa, làm cho địch bị
khủng hoảng tinh thần… mở đường cho đơn vị bên ngoài tràn vào như đã dự mưu.
Khi đã phần nào làm chủ tình hình các cá nhân đặc công sẽ phối hợp cùng nhau
đồng loạt hô hoán khắp nơi. Việc này rất có lợi vì vừa bẻ gãy nốt tinh thần
kháng cự còn sót chưa dứt điểm hết của đối phương vừa làm ám hiệu nhận dạng,
phân biệt bạn và thù…
Cauminhngoc
02/01/2015
(1) Căn cứ B1, thuộc Gio Linh, Tỉnh Quảng Trị, nằm trên một cồn cát sát biển. Phía Bắc gần cửa Tùng, đi về phía Nam là cửa Việt. Chốn máu lửa này ở mạn Nam vùng phi quân sự. Nơi đây có một chuỗi căn cứ dã chiến lấy tên theo mẫu tự A, B và C do quân đội Mỹ xây dựng và đảm trách cặp theo hàng rào điện tử Mc.Namara đến tận biên giới Việt-Lào. Sau năm 1969, những căn cứ này đã giao lại cho Trung đoàn 2 của SĐ1BB (Có phù hiệu con Hà Mã) phụ trách.
(Sư đoàn 1 BB/VNCH. Gồm có 04 trung đoàn
chính thức. 1, 2, 3 và 54. Tăng cường
thêm Trung đoàn 51 biệt lập. Mỗi Trung đoàn có 04 tiểu đoàn. Riêng Trung đoàn 2 (Còn tên gọi khác trung đoàn Bến Hải) đặc biệt có 5 tiểu đoàn. Năm 1971 Trung đoàn 2. Sư Đoàn 1, được chọn làm nòng cốt cho
SĐ 3/BB. Vì tính ô hợp nên Sư đoàn 3, không chịu nối áp lực chiến sự và đã tan rã vào năm 1972).
(2) Lam Sơn 719. Chiến dịch Lam Sơn. Quốc lộ 9, vùng Hạ Lào năm 1971. Cho đến giờ phút này đã qua gần nửa thế kỷ. Bản thân vẫn không thể nào hiểu nổi tại sao Bộ TTM. QLVNCH và Mỹ lại bắt tay nhau mở ra chiến dịch Lam Sơn 719? Một mặt trận quá thiển cận, lộ liễu phản binh pháp, hoàn toàn bất lợi trên đất người. Toàn bộ các đơn vị tham chiến của VNCH đều đưa đầu chịu báng ngay từ giây phút chân ướt chân ráo vì cái chuyện. " Đối phương thấy ta rất rõ mà ta hoàn toàn mù tịt về họ ". Không thể yểm trợ hỏa lực pháo binh cho những đơn vị dã ngoại vì bị khống chế bằng những loạt pháo kích tầm xa của đối phương, bởi chuyện căn cứ nằm vào những tọa độ chuẩn có sẵn trong bản đồ. Sự lộ liễu này bị đối phương tận dụng để xạ kích chính xác và thường xuyên. Đã thế, hậu cần tiếp vận... quá thiếu thốn sơ sài, lệ thuộc triệt để vào cầu không vận của Mỹ và hầu như không thể yểm trợ cho những đơn vị tiền phương, hoạt động dã ngoại bởi mạng lưới súng phòng không dày đặc ... Còn B 52, phi pháo lẻ tẻ của Mỹ từ hạm đội không thể đáp ứng được tính cấp thiết của trận địa trải rộng đều khắp... Có điều gì bí ẩn đằng sau chiến dịch này chăng? Khi mà toàn bộ cố vấn Mỹ đều ở lại Khe Sanh và chỉ đảm trách yểm trợ bằng không lực ... Cái cảnh ban ngày cát bụi bay mù trời ở những bãi đáp dã chiến do trực thăng của quân đội Mỹ nườm nượp liên tục tải thương, chở xác từ các mặt trận bên Hạ Lào về. Rồi hằng đêm có những đoàn xe " lô-bồi " to đùng dài sọc cõng quan tài, vào rỗng, ra đầy nối đuôi nhau pha đèn sáng rực một góc trời, kéo nhau đi về như đèn cù giữa Đông Hà và Căn cứ Nguyễn Huệ ở Khe Sanh, nơi đặt Bộ chỉ huy tiền phương của Quân đoàn I để điều động mặt trận Hạ Lào. Có chứng kiến mới thấy kinh hoàng và đau đớn cỡ nào.... Bị bán đứng chăng!?
(3) Mùa Hè 1972. Chiến sự dữ dội nổ khắp Vùng I Chiến thuật. Với hai trọng điểm khốc liệt đầy máu lửa. Cổ thành Quảng Trị ở mạn Bắc và căn cứ Bastogne (Còn gọi là Phú Xuân) phía Tây nam Huế. Căn cứ Bastogne này do quân đội Mỹ thiết lập. Nằm sát bên cạnh là ngọn đồi trọc cao vút, nhọn như cái nón có cao độ 342 thước, tên Checkmate là tiền đồn quan sát, yểm trợ của cứ điểm Bastogne. Hai căn cứ này nằm chắn ngang, kẹp cứng con đường mang số hiệu 547 vào giữa. Với mục đích khống chế và kiểm soát con đường chạy suốt từ thung lũng Ashau gần biên giới Lào về đến bờ bắc sông Hương, nơi có bến phà Tuần. (Nay đã có cầu bêtông bắc ngang). Bastogne là cứ điểm hỏa lực được xem là rất quan trọng ở phía Tây Nam Huế. Sau khi rút quân đội Mỹ đã bàn giao lại cho phía quân đội VNCH. Do hai Tiểu Đoàn thuộc Trung Đoàn 54/1 BB tăng phái đảm trách. Mặc dù nằm trong vùng trách nhiệm của Trung đoàn 3/1BB. Nhưng vào lúc đó 04 tiểu đoàn của Trung đoàn 3/1BB thay phiên nhau chịu trách nhiệm ở các vùng rừng núi nằm sâu trong dãy Trường Sơn, nên không đủ quân số trấn giữ hai căn cứ Bastogne và Checkmate này. Sau trận chiến mùa Hè 72 mới giao lại cho Trung đoàn 3/1BB.
(4) Thung lũng 68. Tên thường gọi của các đơn vị thuộc Trung Đoàn 3/1 BB. Chỉ danh cho vùng rừng rậm lòng chảo gồm những ngọn đồi cao không quá 100m. Trong đó có ngọn mang độ cao chuẩn 68 mét. Vùng thung lũng này nằm theo trục Bắc Tây Bắc. Có chiều dài hơn mười. Ngang hơn hai cây số đường chim bay. Bắc giáp núi Động Ngang đổ lài chạy dài về hướng Bắc đến dãy Hồn Vượn ( hay còn gọi là căn cứ TBone ). Nơi đặt BCH tiền phương Trung Đoàn 3/1 BB. Đông giáp rặng Sơn Đào. Nam giáp động tranh đổ dài ra đến đường 547 qua căn cứ hỏa lực Bastogne ( Còn gọi là Phú Xuân ). Tây giáp ngọn 246 còn gọi là căn cứ Hoàng Đế ( King ). Đặc điểm vùng này có con suối khá lớn bắt nguồn từ chân núi Động Ngang chảy xuôi theo hướng Nam khu vực động tranh 68 vào rào Bình Điền đổ ra sông Hương. Vùng lòng chảo này là con đường huyết mạch của du kích dùng để liên lạc, tiếp tế thường xuyên với những vùng cận sơn như: Ấp Lai Bằng, La chữ, An Đô...
(5) Căn cứ King do quân đội Mỹ thành lập, tọa lạc trên ngọn núi có độ cao 246 thước, ở mạn bắc con đường 547, thuộc quận Nam Hòa, tỉnh Thừa Thiên. Sau khi giao lại cho quân đội VNCH được gọi là Hoàng Đế. Nếu chọn căn cứ King làm chuẩn. Ở phía Tây-Bắc của căn cứ King còn có căn cứ Lion ở độ cao 253 mét gần Núi Gio. Nằm giáp bờ Nam sông Bồ. Về hướng Bắc-Đông-Bắc giáp dãy Núi Động Ngang đến ngọn Hồn Vượn (TBone). Nơi đặt BCH hành quân của Trung đoàn 3/1BB. Dãy đồi trọc này kéo dài về hướng Đông sẽ gặp căn cứ Tiger rồi đổ dài đến tận bờ Bắc sông Hương, nơi có đền Văn Thánh cũng là Trung tâm huấn luyện của Sư đoàn 1 BB. Chân đồi Bắc dãy Hồn Vượn là địa giới giáp ranh của Quận Nam Hòa và Quận Hương Trà. Về phía Nam có căn cứ Bastogne-Checkmate trên trục đường 547. Nằm sâu hơn về phía Nam của căn cứ Bastogne-Checkmate là dãy Đèo Sơn Na và tiền đồn mang tên động Chúc Mao cao 514 thước nằm sâu hơn trong khu vực này. Tất cả liên kết thành một chuỗi liên hoàn phía Tây Nam Huế.
(6) Việc
chứng kiến tận mắt các cá nhân đặc công biểu diễn vào năm 1972 ở căn cứ “ Boyd”. Chỉ khi nào họ mở trận thì mới biết mình bị đánh. Vì vậy phải là những người đã từng được học qua kỹ thuật chống lối đánh đặc công, cũng như đã từng bị đặc công đột kích mới nắm bắt được tính chất cân não lúc lâm trận và sự lợi hại của chiến thuật đặc công tuyệt vời này. Nếu chỉ nghe thuật lại thì chả khác gì như việc cỡi ngựa xem hoa. Không thể có, cũng như không thể nào cảm nhận được trạng huống lúc trực diện với cái chết có thể đến bất cứ lúc nào. Thời khắc mà tinh thần bị khủng hoảng căng thẳng cực độ, trí não vượt qua ngưỡng giới của sự sợ hãi để bước vào trạng thái bình tĩnh vô thức, vô cảm, trống rỗng như không có não trong đầu chỉ còn bản năng sinh tồn cùng thú tính của thân xác trỗi dậy mạnh mẽ để tranh giành lấy sự sống bằng mọi phương tiện vũ khí sẵn có trong tay... Những người lính tác chiến hay dùng từ " say mùi thuốc súng " để chỉ định cho trạng thái tinh thần này.
Lưu ý: Đây là dữ kiện thực tế ở phần
đầu nửa sau cuối TK 20. Khi chiến tranh tại VN ở trong tầm mức còn dùng sức người,
vũ khí chưa mấy gì hiện đại. Sau này sự hoạt động của các đơn vị đặc nhiệm đã
khác đi rất nhiều bởi người lính được hỗ trợ bằng rất nhiều phương tiện, khí tài chiến tranh hiện
đại của Thế kỷ 21.
(7) Đọc kỹ phần " Quân Thanh tiến vào Đại Việt ". Nơi nguồn Wikipedia. Chúng ta mới thấy. Với cách rải quân lập cầu tiếp vận và lối bố phòng của quân nhà Thanh để giải quyết cho việc quân đồn trú kéo dài hàng ngàn cây số từ tỉnh Quảng Đông sang đến tận Thăng Long. Không những vậy mà quân Thanh phải bao biện luôn cả những vùng phụ cận trên lãnh thổ Đại Việt. Do đó số lượng quân số phải thật đông đảo chia rải đều khắp trên vùng lãnh thổ tạm chiếm, để bảo toàn việc tiếp vận lương thảo giữ thế vẹn toàn và cứu ứng lẫn nhau mỗi khi hữu sự, cũng không có chuyện dồn quân đóng tập trung vào cùng một nơi, cũng không thể chỉ có vài ngàn quân mà được. Những người không lưu tâm về mặt tổ chức quân sự sẽ rất không tin về chuyện số lượng quân Thanh kéo sang Việt Nam đông đảo đến như vậy! Đơn giản, họ cho rằng cả vài vạn người như thế thì chúng lấy gì mà ăn và ở vào đâu cho hết!!! Cũng xin hiểu cho. Cấp số quân thì nhiều, nhưng khi tác chiến thì chỉ có lực lượng chiến đấu mới có sự đối đầu. Còn như những đơn vị hậu cần ở phía sau rất yếu và ít va chạm nên rất dễ tháo chạy khi bị tập kích hay khi đơn vị tác chiến bị phía trước tan rã thì họ sẽ dễ tan vỡ theo.
Một số người có óc hoài nghi tin rằng chiến thắng năm Kỷ Dậu ( 1789 ) của vua Quang Trung chỉ là sự thổi phồng không trung thực. Họ cho rằng quân Tây Sơn chỉ là bọn thảo khấu không thể đánh bại một đạo quân thiện chiến đông đảo đến hàng trăm ngàn người chỉ trong vòng mươi ngày được. Nên họ đưa ra lập luận khi dựa vào một vài dữ liệu vu vơ nào đó và cho rằng quân Thanh chỉ có vài ngàn người đi ngựa sang đồn trú ở Thăng Long và không có ý chủ chiến nên dễ dàng bị quân Tây Sơn đánh bại... Không rõ đây là tư tưởng tự ty dân tộc hay muốn làm " kẻ đốt đền " để được nổ tiếng!? Một suy nghĩ thật khó hiểu. Trong khi các dân tộc trên thế giới cố tìm những người có công với đất nước, dân tộc để tôn vinh. Riêng ở mảnh đất hình chữ "S" này lại có người đi ngược lại với tôn chỉ cao đẹp đó. Họ đăng bài cho rằng chiến tích lẫy lừng của Nguyễn Huệ chỉ là chuyện hoang tưởng. Họ coi thường một sự kiện lịch sử được cả dân tộc tôn kính. Có vẻ như không muốn công nhận một chiến tích lẫy lừng mà đến ngay cả kẻ chiến bại là nhà Thanh bên Trung Quốc cũng đã có sự ghi chép rõ ràng sự kiện bại trận dưới tay vua Quang Trung vào trong lịch sử của họ! Những " kẻ đốt đền " có vẻ chả quan tâm gì đến tài cầm quân " bách chiến, bách thắng " của vua Quang Trung khi ông đem quân vào Nam ra Bắc như chốn không người. Rồi chiến thắng Rạch Gầm - Soài Mút ( 1785 ) dường như không xảy ra dưới mắt họ. Không những thế họ còn lôi cả đời tư của Nguyễn Huệ ra phê phán, kết tội này nọ. Cố tình đánh tráo khái niệm và cho rằng đó là việc làm gạn đục khơi trong, trả lại sự trung thực, đem lại trong sáng cho lịch sử ?!?! Thử hỏi họ biết được những gì ở quá khứ? Hay chỉ dựa vào vài trang sách nào đó chưa hẳn đã trung thực nói về một xã hội cách thời điểm họ đang sống cả hàng thế kỷ. Họ cũng không chịu hiểu cho sự thất bại của nhà Tây Sơn chỉ xảy ra sau khi vua Quang Trung chết!
Tóm lại. Cốt lõi của vấn đề là do họ đã không hiểu, không biết và không lý giải được là làm cách nào mà quân Tây Sơn dưới tài lãnh đạo của vua Quang Trung đã đánh tan được đội quân Thanh hùng hậu với cả vài chục vạn người như thế mà thôi!
(8) Bình
thường nếu muốn tấn công triệt hạ một cứ điểm có phòng thủ kỹ lưỡng. Không dễ chỉ một vài hôm mà
được. Cơ bản là vì quân Thanh có lợi điểm về thành quách, vị trí phòng thủ vững chắc, vũ khí đạn dược cũng
như quân số dồi dào. Theo lịch sử có ghi chép chỉ trong vòng 06 ngày mà quân
Tây Sơn đã đánh chiếm gọn 07 đồn trại nêu trên quả là một thành tích không
tưởng....Vốn
dĩ xuất thân từ tầng lớp áo vải, anh em nhà Tây Sơn không phải là quan chức
được đào tạo chính thống, vậy mà họ đã vẫy vùng ra Bắc vào Nam như chốn không người. Chứng tỏ tài cầm
quân của ba anh em nhà Tây Sơn rất giỏi. Có thể nói là cá biệt.
(9) * Hỏa cầu lưu hoàng.
Là loại vũ khí xuất hiện từ thế kỉ 17, được nhà
quân sự Đào Duy Từ sáng chế dựa trên kĩ thuật hỏa khí phương Tây, hỏa cầu còn
có tên gọi khác là hỏa cầu lưu hoàng. Đây là một quả cầu kim loại rỗng ruột
hoặc bằng giấy quết nhựa bên ngoài, có tay cầm, to cỡ quả bưởi, bên trong nhồi thuốc nổ, chất cháy, mảnh
gang, sắt vụn và các quả cầu con, để gây cháy, nổ dây chuyền. Khi sử dụng thì
châm ngòi nổ và ném vào đối phương. Có thể coi đây là một loại lựu đạn sơ khai
có tác dụng gây cháy.
Hỏa cầu. ( nguồn soha.vn. Vũ khí tối tân...) Có lẽ chất nổ mà vua Quang Trung đã dùng, được nghiên cứu và cải tiến từ loại hỏa cầu vỏ bằng giấy này cho phù hợp với việc sử dụng. Trước mắt có hai phần lợi.
a/ Trong lúc nổ không có văng miểng, gây nguy hiểm cho người sử dụng.
b/ Chế tạo lại cho sức công phá có hiệu quả, cũng như gọn nhẹ hơn để dễ mang theo được nhiều...
Trang sách nói về thủ pháo đời nhà Minh (Trung Quốc) (Nguồn: Wiipedia)
* Súng hỏa hổ.
Sách Binh thư yếu lược hướng dẫn cách chế tạo súng và liều thuốc như sau: Súng được chế tạo bằng một ống (bằng sắt hoặc bằng tre, gỗ) dài khoảng 25cm, nạp thuốc thành nhiều nấc. Nấc đầu tiên là liều thuốc bắn, giã nén chặt dày khoảng 4cm, sau đó tiếp nấc thứ hai là liều thuốc phun, giã nén chặt, dày khoảng 12cm. Sau đó, nạp đạn ghém gồm các vật liệu sát thương, dày khoảng 4cm. Phần ống còn lại nạp dầy thuốc phun Gặp địch, người dùng hỏa hổ châm ngòi, cầm cán tre chĩa vào, thuốc phun và đạn sẽ phóng ra đốt cháy sát thương đối phương. Dùng xong lại có thể lấy ống đó nạp liều thuốc khác. Theo các nhà nghiên cứu, hỏa hổ thời Tây Sơn được cải tiến từ các hỏa đồng (ống lửa) hạng nhỏ thời Lê sơ. Trong tay nghĩa quân Tây Sơn, nó được dùng một cách tập trung, ồ ạt, tạo thành hỏa lực giáp chiến hết sức lợi hại. ( nguồn soha.vn. Vũ khí tối tân...)
(10) Cứ
điểm Tam Điệp coi như Bộ chỉ huy tiền phương. Là đầu não điều hành, nắm giữ tất
cả việc quân. Nơi xuất phát mọi sự có liên quan đến những trận đánh.
(11) Trong bài này chỉ phân tích về lối đánh đặc công bộ. Bởi chiến thắng của vua Quang Trung vào năm Kỷ Dậu (1789) chủ yếu diễn tiến trên bộ. Thủy chiến ở trong chiến dịch này cũng có nhưng chỉ là để chặn đường hoặc đánh giáp công nhiều mặt làm cho quân Thanh không thể cứu ứng lẫn nhau.
Nếu muốn nhắc đến trận đại thắng bằng thủy chiến của Vua Quang Trung thì không thể không nhắc đến trận đại thắng quân Xiêm ở Rạch Gầm - Xoài Mút năm 1785 trên sông Tiền. Và trong trận thủy chiến này Nguyễn Huệ cũng đã ứng dụng chiến thuật đặc công thủy để quật ngã đạo thủy quân hùng hậu của quân Xiêm do Nguyễn Ánh cầu viện. Một chiến tích lẫy lừng về thủy chiến có một không hai trong sự nghiệp cầm quân của Quang Trung Hoàng Đế...
Đặc công thủy có nhiều khác biệt với đặc công trên bộ. Khác biệt lớn nhất. Chuyên hoạt động dưới nước. Rất ít dùng để tấn công mở đường, ngoại trừ trường hợp mở chiến dịch lớn có hiệp đồng các binh chủng. Chủ yếu là hoạt động phá hoại, gây rối, ngăn trở làm tiêu hao khí tài quân số của địch ở các căn cứ đường thủy.... Hoạt động riêng lẻ theo từng tổ. Mỗi tổ thường không quá 05 người... ( Nếu cần hãy tìm hiểu những bài viết về "Đặc công thủy" sẽ rõ hơn).
Hình ảnh về người lính Đặc công ngày nay và đặc công thủy (Nguồn: vtcNEWS, Google, QDND, VnExpress)
Trước 1975. Nơi các căn cứ hải quân của miền Nam. Các lính trực gác cứ mươi lăm phút lại thả xuống nước một trái lựu đạn tấn công loại MK2 để ngăn chặn đặc công thủy áp sát đặt chất nổ phá hoại tàu. Loại lựu đạn này khi nổ tạo sức ép để công phá gây sát thương, không có miểng.
Dẫn: Trong lịch sử ta có một nhân vật anh hùng " đặc công thủy " rất nổi tiếng. Đó là Yết-Kiêu thuộc đời nhà Trần. Gia nô của Trần hưng Đạo. Người đã lặn xuống sông đục thuyền, gây biết bao nỗi hoang mang khiếp hãi cho các đơn vị thủy quân nhà Nguyên khi kéo vào xâm lược nước ta.
" Tương truyền, ông nhà nghèo, hằng ngày ông phải đi mò cua bắt ốc, bắt cá đem bán lấy tiền đong gạo nuôi thân. Ông có sức khỏe và dũng cảm lạ thường. Một hôm thấy hai con trâu trắng đang húc nhau trên bãi cát, ông dùng đòn gánh phang, cả hai con trâu chạy biến xuống nước. Ông mới biết hai con trâu mình vừa đánh là trâu thần, sờ lại đầu đòn gánh thì thấy còn dính vài cọng lông, ông liền nuốt lấy, từ đó mà ông bơi lặn giỏi. Ông lội nước hàng mấy dặm như đi trên đất và thường lặn lội bắt cá, mò trai cả ngày dưới nước ".
( Nguồn Wikipedia về Yết Kiêu. )
(12) Có lẽ
họ bị Pháp hất cẳng, nên quay sang giao thương với nhà Tây Sơn?
(13) Có thể nói chiến thuật, kỹ thuật tác chiến đặc công của quân Tây Sơn rất gần gũi với lối hành sự của những " Ninja " Nhật Bản. Biết đâu Nguyễn Huệ đã khai thác, học hỏi thêm kỹ thuật tác chiến từ những " Ninja " Nhật, qua sự giao tiếp với họ ở Hội An (Faifo). Cũng biết đâu, trong hàng ngũ quân Tây Sơn. Vua Quang Trung lại có sử dụng một số cố vấn quân sự người Nhật? Nhưng dù cho có hay không ta cũng cần phân định rõ một điều là các Ninja của Nhật chỉ hoạt động trong phạm vi giữa các phe nhóm (Sứ Quân). Với vua Quang Trung. Ngài ứng dụng vào chiến thuật quân sự chống ngoại xâm, nên có tầm vóc khác với Ninja của Nhật.
Dẫn:
" ...Vào năm 1567, triều đình nhà Minh của Trung Quốc từ bỏ chủ trương bế quan tỏa cảng, cho thuyền buôn vượt biển giao thương với các quốc gia vùng Đông Nam Á, nhưng vẫn cấm xuất khẩu một số nguyên liệu quan trọng sang Nhật Bản. Điều này đã bắt buộc Mạc phủ Toyotomi rồi Mạc phủ Tokugawa cấp phép cho các thuyền buôn Châu Ấn sang mở rộng quan hệ thông thương với Đông Nam Á và mua lại hàng hóa Trung Quốc từ các quốc gia đó. Những con tàu Châu Ấn bắt đầu xuất dương từ năm 1604 dưới thời Mặc phủ Tokugawa, cho tới năm 1635, khi chính sách đóng cửa được ban bố, đã có ít nhất 356 con tàu Châu Ấn ra đời. Nơi thuyền Châu Ấn đi qua nhiều nhất chính là cảng Hội An. Trong vòng 30 năm, 75 con tàu Châu Ấn đã cập cảng nơi đây, so với 37 con tàu cập bến Đông Kinh, khu vực do chúa Trịnh cai trị. Các thương nhân người Nhật khi đó tới bán những đồ đồng, tiền đồng, sắt, đồ gia dụng... và mua lại đường, tơ lụa, trầm hương... Khoảng năm 1617, phố Nhật Bản ở Hội An được hình thành và phát triển cực thịnh trong đầu thế kỷ 17. Qua bức họa Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ của Chaya Shinroku, có thể thấy khu phố người Nhật với những công trình kết cấu gỗ hai, ba tầng. Thuyền trưởng người Hà Lan Delft Haven ghi lại năm 1651, Hội An khi đó có khoảng 60 căn nhà của người Nhật nơi dọc bờ sông, nhà cửa xây bằng đá để tránh hỏa hoạn, nằm sát vách nhau. Nhưng khoảng thời gian tiếp sau, do chính sách bế quan của Mạc phủ Tokugawa cũng những chính sách đàn áp người Nhật Công giáo của chúa Nguyễn, khu phố Nhật ở Hội An dần bị lu mờ. Mặc dù vẫn còn một số nhỏ người Nhật định cư lại đây nhưng người Hoa dần thay thế vai trò của người Nhật trong việc buôn bán. ( Nguồn Wikipedia. Thời kỳ Hội An ).

Hội An trong bức họa Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ. Tác giả Chaya Shinroku.
( Nguồn Wikipedia. Thời kỳ Hội An ).
NGUỒN GỐC NINJA.
Ninja (忍者 Nhẫn giả?) hay shinobi (忍び?), là danh xưng để chỉ những cá nhân hay tổ chức đánh thuê chuyên về hoạt động bí mật từng tồn tại trong lịch sử Nhật Bản về nghệ thuật không chính thống của chiến tranh từ thời kỳ Kamakurađến thời kỳ Edo. Các chức năng của ninja bao gồm gián điệp, phá hoại, xâm nhập, ám sát, thậm chí có thể tham gia tập kích đối phương trong một vài trường hợp nhất định.[1] Các ninja, khác với samurai vốn có những quy định nghiêm ngặt về danh dự và chiến đấu, lại thường thiên về các thủ đoạn không quy ước và bí mật[2]. Nhà sử học quân sự Hanawa Hokinoichi đã viết về Ninja trong cuốn Buke Myōmokushō của mình:
“ | Họ ngụy trang ở bất cứ các khu vực lãnh thổ của đối phương để đánh giá tình hình của địch, họ sẽ dụ dỗ bằng cách riêng của mình, tiến vào giữa đối phương để phát hiện ra những khoảng trống và xâm nhập vào lâu đài của đối phương để phóng hỏa, ám sát hay theo dõi bí mật.[3] | ” |
Nguồn gốc của các ninja là khó có thể xác định, nhưng có thể được phỏng đoán được rằng, họ xuất hiện vào khoảng thế kỷ 14.[4] Tuy nhiên, những tiền đề để Ninja có thể đã tồn tại xuất hiện sớm nhất vào cuối thời kỳ Heian [5] và đầu thời kỳ Kamakura.[6] Rất ít hồ sơ bằng văn bản tồn tại đến từng chi tiết hoạt động của ninja.
Do đặc thù của mình, ninja thường bị bao phủ bởi bức màn bí mật, nên có rất ít tài liệu ghi nhận. Hầu hết các kỹ thuật của ninja cổ xưa đều bị thất truyền, nhưng rất nhiều các tổ chức vũ trang đặc biệt của quân đội và cảnh sát của nhiều quốc gia trong quá khứ và hiện tại vẫn duy trì huấn luyện các kỹ thuật tương đồng với các ninja trong những nhiệm vụ đặc biệt hoặc bí mật như SEAL, SWAT, Đặc công...
CÁC KỸ NĂNG CỦA NINJA.
1. Thuật phi thân: ninja thường tập luyện bằng cách nhảy qua các vật cản, từ thấp đến cao, ngày này qua ngày khác tạo nên sức bật, dẻo dai vượt trội người thường, cộng thêm các kỹ thuật bám vịn điểm tựa, ván nhảy để vượt qua các vật cản không quá cao (tường tầm thấp, mái nhà...). Từ đó, hình thành huyền thoại ninja có khả năng nhảy cao.
2. Thuật ẩn nấp: ninja thường tính toán rất kĩ địa thế, thời điểm hoạt động. Cộng với trang phục và sử dụng vật liệu hóa trang hòa nhập với môi trường, họ có thể dễ dàng ẩn nấp thích ứng tốt với các địa hình (cây cỏ, núi, nước...). Do các kỹ thuật của ninja đều không phổ biến, nên được dân gian thêm thắt thành huyền thoại ninja có thể tàng hình!
3. Thuật dùng dụng cụ hỗ trợ: do đặc thù tác chiến đặc biệt, hầu hết phải hoạt động trong khu vực được bảo vệ nghiêm ngặt của đối phương, các ninja thường phải dùng rất nhiều các công cụ để hỗ trợ việc thâm nhập. Do phải mang vác, nên hầu hết các công cụ hỗ trợ phải gọn nhẹ và hầu hết là thô sơ, đòi hỏi phải có khả năng sử dụng nhiều mục đích khác nhau và phải được tập luyện thành thục. Như các kỹ thuật, dây thừng đầu có móc sắt/móc ghim (hình dạng bàn tay) để phóng chặt vào 1 điểm cao (bằng gỗ, tường đất...) và leo lên. Kỹ năng này yêu cầu phải nhanh gọn và cũng phải được tập luyện nhiều.
CÁC KỸ NĂNG TIÊU BIỂU KHÁC MÀ MỘT NINJA PHẢI THUẦN THỤC....
1. Kỹ năng sử dụng vũ khí cận chiến (Melee weapon): kiếm ngắn, dao găm, phi tiêu các loại... Yêu cầu tiên quyết là dứt điểm mục tiêu nhanh gọn ít tiếng động
2. Kỹ năng sử dụng vật liệu nổ: gây cháy, gây độc, gây khói
3. Kỹ năng lợi dụng địa hình, địa vật, cấu trúc nhà cửa, trần nhà, v.v, để ẩn nấp hay bám trụ bất động ở đó trong một thời gian lâu, chờ thời cơ
4. Kỹ năng xử lý tình huống: có thể sử dụng bất kì vũ khí, vật dụng trong tay để tiêu diệt đối phương, gây ít tiếng động để trốn thoát, lẩn trốn nhanh
5. Kỹ năng điều nghiên, trinh sát khu vực sắp thực hiện nhiệm vụ
6. Tinh thần dũng cảm, bất khuất của võ sĩ đạo: quyết thực hiện nhiệm vụ tới cùng, tự sát để không lộ bí mật & bảo vệ tư cách.
( Nguồn. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia ).
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Wikipedia Bách Khoa Toàn Thư Mở. Về Vua Quang Trung.
- Nguồn soha.vn. Vũ khí tối tân...
- Nguồn: Ngoại thương của Đàng Trong trong quan hệ với các nước phương Tây từ thế kỷ XVI đến thế kỷ thứ XVII. Bài của NGUYỄN VĂN TẬN - HOÀNG THỊ ANH ĐÀO. Đăng trên tạp chí Sông Hương.
- Nguồn. Lịch sử Viêt Nam về Vua Quang Trung.
- Nguồn. BaoBinhDinh. Tài hóa trang binh sĩ của vua Quang Trung….
- Nguồn: Lại nguyên Ân. “ Chiến thắng Ngọc Hồi, Đống Đa năm Kỷ Dậu 1789 ”. Bài viết của cụ Phan Khôi.
- Nguồn: Văn mẫu Việt Nam. “Phân tích nhân vật Quang Trung…”
- Theo Đông Tây nhật báo - 1939 ( Về Vua Quang Trung. Tài liệu của Thư viện tổng hợp Bình Định).